Đáp án tham khảo
Câu 1, Nêu những điểm
giống, khác nhau giữa hai xu hướng bạo động, cải cách trong phong trào yêu nước
và cách mạng ở Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
Trả lời:
- Những điểm giống và khác giữa
hai xu hướng bạo động, cải cách trong phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam
những năm đàu thế ki XX :
Xu hướng
bạo động
|
Xu
hướng cải cách
|
|
Điểm
khác
|
- Do Phan Bội Châu khởi xướng.
- Chủ trương dùng bạo lực vũ
trang đấu tranh, tiến tới thiết lập nền quân chủ lập hiến.
- Dựa vào Nhật để chống Pháp,
lập Hội Duy Tân và thực hiện phong trào Đông Du.
|
- Do Phan Châu Trinh khởi xướng
- Chủ trương đấu tranh bằng
những cải cách xã hội, nâng cao dân trí dân quyền, tiến tới xóa bỏa nền phong
kiến lạc hậu, xây dựng xã hội tiến bộ.
- Dựa vào Pháp để chống phong
kiến, yêu cầu người Pháp làm cho nước ta giàu mạnh, thực hiện cuộc vân động
Duy Tân và phong trào chống thuế ở Trung Kì.
|
Điểm giống
|
- Đều do những sĩ phu, văn thân
yêu nước tiến bộ khởi xướng và lãnh đạo.
- Mục tiêu chung là đánh đuổi
giặc Pháp, giành lại độc lập dân tộc và phát triển đất nước
- Đều là những cuộc vận động
giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
- Đều thu hút sự tham gia đông
đảo của quần chúng nhân dân.
- Đều thất bại và thể hiện tinh
thần yêu nước của tầng lớp sĩ phu, văn thân lúc bấy giờ.
|
- Nhận xét: Cả hai xu hướng đấu
tranh trong phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX dù giống hay khác
nhau đều có những hạn chế về mục tiêu và đường lối đấu tranh. Điều đó cho thấy
sự khủng hoảng của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, đòi hỏi phải có một phương
hướng cứu nước đúng đắn. Đó cũng chính là lí do đưa đến việc Nguyễn Ái Quốc ra
đi tìm đường cứu nước.
Câu 2, Giải thích ý
kiến của anh (chị) về nhận định: Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra cho
các dân tộc bị áp bức thời đại giải phóng dân tộc.
Trả lời:
Năm 1917, Cách
mạng tháng Mười Nga thành công đã mở ra thời đại mới cho dân tộc Nga và các dân
tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Với thắng lợi
của Cách mạng tháng Mười, đế quốc Nga – khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của
chủ nghĩa đế quốc đã bị chọc thủng, khiến cho chúng không thể liên kết với nhau
để đàn áp phong trao cách mạng thế giới như trước nữa . Đều đó có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ
thuộc.
Cách mạng tháng
Mười Nga thành công đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là
ở các nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Mông Cổ, Việt Nam,…Ở những nước này
phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc sau chiến tranh thế giới thứ nhất phát
triển mạnh mẽ, các đảng cộng sản lần lược ra đòi và lãnh đạo phong trào.
Quan trọng hơn,
Cách mạng tháng Mười thành công đã dẫn
đến sự ra đời của Liên Xô – nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Liên Xô đã
cùng với Quốc tế cộng sản ( được thành lập vào tháng 3-1919 tại Mát-xcơ-va ) đã
dẫn dắt phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc từ năm
1919 đến năm 1943. Sau đó, với thắng lợi của
mình trong việc đánh bại phát xít Đức và quân phiệt Nhật trong chiến
tranh thế giới thứ hai (1939-1945), Hồng quân Liên Xô đã giải phóng các nước Đông Âu ra khỏi ách
phát xít Hít-le, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt các quốc gia Á,
Phi, Mi La-tinh đánh đuổi đế quốc thực dân giành lại dộc lập dân tộc.
Ngoài ra, Cách
mạng tháng Mười còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho phong trào cách mạng
thế giới, giúp cho nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc tìm ra con đường giải phóng
cho chính mình, trong đó có Việt Nam chúng ta.
Nhìn lại một lần
nữa về ý nghĩa lớn lao của Cách mang tháng Mười,chúng ta có thể kêt luận rằng:
nhận định “Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra cho các dân tộc bị áp bức
thời đại giải phóng dân tộc” là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 3, Phân tích vai
trò của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đối với cách mạng Việt Nam vào nửa
sau những năm 20 của thế kỉ XX.
Trả lời:
Vai trò của Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên đối với cách mạng Việt Nam nửa sau những năm 20 của thế kỉ XX:
- Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sang lập vào tháng 6-1925 ở Quảng Châu (Trung
Quốc) với hạt nhân là Cộng sản đoàn. Tronh thời gian hoạt động của mình, Hội đã
có những đóng góp to lớn đối với cách mạng Việt Nam nửa sau những năm 20 của
thế kỉ XX.
- Việc Hội mở lớp đào tạo cán bộ
cách mạnh và xuất bản sách báo cách mạng (báo Thanh niên và tác phẩm Đường kách
mệnh) đã góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Đó là một trong
những nhân tố đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
- Năm 1928, Hội thực hiện chủ
trương “vô sản hóa”, nhiều cán bộ cách mạng đã đi vào nhà máy, đồn điền, hầm mỏ
sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền và vận động cách mạng, nâng
cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân. Điều đó đã thúc đẩy phong trào
công nhân những năm 1928-1929 phát triển mạnh mẽ, giai cấp công nhân từng bước
trưởng thành và nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên lãnh đạo quần chúng đấu tranh theo khuynh hướng vô sản góp phần làm phong
phú thêm các phương hướng đấu tranh trong phong trào yêu nước những năm
1925-1929.
- Năm 1929, đáp ứng yêu cầu của
cách mạng Việt Nam, Hội đã phân hóa thành hai tổ chức cộng sản là Đông Dương
Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng. Sự xuất hiện của các tổ chức cộng sản cho
thấy xu thế khách quan của cách mang Việt Nam là đi theo con đường cách mạng vô
sản.
- Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên là tổ chức cách mạng có tổ chức cơ quan chặt chẽ, mục tiêu rõ ràng, đường
lối hoạt động đúng đắn và có cơ sở rộng khắp trong quần chúng nhân dân. Những
điểm đó cho thấy Hội chính là tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nói tóm lại, những hoạt động
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nửa sau những năm 20 của thế kỉ XX đã
chuẩn về tổ chức và tư tưởng chính trị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930) –
nhân tố quyết định những thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau này.
Câu 4, Trình bày
nguyên nhân và hệ quả cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp ở Đông Dương
(9-3-1945).
Trả lời:
- Nguyên nhân Nhật đảo chính
Pháp:
+ Cuối năm 1944 đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai
bước vào giai đoạn kết thúc. Ở châu Âu, Hồng quân Liên Xô trên đường vào
Béclin, Đức Quốc xã đứng trước giờ bị tiêu diệt. Ở châu Á- Thái Bình Dương quân
Nhật phải chống trả những đòn tấn công quyết liệt của liên quân Mĩ-Anh ở trên
bộ cũng như trên biển, lại không nhận được sự giúp đỡ từ đồng minh nên liên tục
gặp thất bại.
+ Lúc này ở Đông Dương ngọn lửa
cách mạng đang dâng cao, còn lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn thì đang ráo riết
chuẩn bị chờ thời cơ phản công. Nền thống trị của phát xít Nhật ở Đông Dương
đang bị đe dọa.
+ Trước tình hình đó Nhật Bản
quyết định ra tay trước, lật đổ Pháp để tránh tình trạng bị đánh sau lưng và có
thể độc chiếm Đông Dương. Vào lúc 20 giờ ngày 9- 3- 1945, quân Nhật nổ súng lật
đổ Pháp trên toàn Đông Dương, quân Pháp chỉ chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu
hàng. Để mị dân, phát xít Nhật tuyên bố sẽ giúp đỡ cho nền độc lập của các dân
tộc Đông Dương, chúng dựng lên chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại
lên làm “Quốc trưởng”, nhưng chưa được bao lâu thì bộ mặt giả nhân giả nghĩa
của chúng đã lộ rõ.
- Hệ quả của việc Nhật đảo chính
Pháp: Sự kiện Nhật đảo chính Pháp ngày 9 - 3- 1945 đã cho thấy sự khủng hoảng
lớn về chính trị của phát xít Nhật, đồng thời làm cho mâu thuẫn giữa chúng và
nhân dân ta càng thêm gay gắt hơn, dẫn đến Cao trào kháng Nhật cứu nước từ
tháng 3 đến tháng 8- 1945:
+ Ngày 12- 3- 1945, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng họp, ra chỉ thị “Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”, phát động cao trào kháng nhật cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa.
+ Ở Cao- Bắc- Lạng, lực lượng Cứu
quốc quân phối hợp với Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân giải phóng
nhiều châu, xã. Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập.
+ Khắp các tỉnh Bắc kì và Bắc
Trung kì, nhân dân hăng hái tham gia phong trào “Phá kho thóc giải quyết nạn
đói” .
+ Cùng với các cuộc nổi dậy ở
Tiên Du, Bần Nhân Yên, ngày 11- 3 tù chính trị ở Quảng Ngãi nổi dậy phá nhà
lao, thành lập đội du kích Ba Tơ.
+ Ở Nam kì, phong trào Vệt minh
phát triển mạnh mẽ nhất là ở Mĩ Tho và Hậu Giang.
+ Cùng với cao trào kháng Nhật
cứu nước, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa được gấp rút hoàn thành. Cả nước đã sẵn
sàng chờ thời cơ đứng lên tổng khởi nghĩa.
Câu 5, So sánh về quy
mô, hình thức, phương châm tác chiến, ý nghĩa lịch sử của chiến dịch Điện Biên
Phủ (1954) và chiến dịch Hồ Chí Minh (1975).
Trả lời:
Chiến dịch Điện
Biên Phủ (1954) và chiến dịch Hồ Chí Minh (1975) đều là những chiến dịch mà
quân ta chủ động tấn công địch trên chiến trường và đều mang tính quyết định lịch
sử. Song do diễn ra trong hai hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên quy mô, hính
thức, phương châm tác chiến và ý nghĩa lịch sử cũng có sự khác biệt.
Về quy mô: chiến
dịch Điện Biên Phủ diễn ra chỉ nhằm giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện giải
phóng Bắc Lào. Còn chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra là để giải phóng Sài Gòn- thủ
phủ của chế độ Ngụy, tạo điều kiện giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất
nước. Tính quyết định của chiến dịch Hồ Chí Minh cao hơn nên diễn ra với quy mô
lớn hơn, huy động sức người, sức của nhiều hơn.
Về hình
thức: chiến dịch Điện Biên Phủ là một
cuộc tiến công chiến lược nằm trong Chiến cuộc Đông - Xuân 1953- 1954, còn
chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra dưới hình thức tổng tiến công chiến lược năm
trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.
Về phương châm
tác chiến: trong chiến dịch Điện Biên Phủ, phương châm tác chiến của bộ đội ta
lúc đầu là “đánh nhanh thắng nhanh” sau chuyển sang “đánh chắc tiến chắc” nhằm
đảm bảo yêu cầu thắng lợi. Còn trong chiến dịch Hồ Chí Minh cả dân tộc ta ra
quân với tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng” và khí thế “thần tốc, táo
bạo, bất ngờ và chắc thắng”.
Về ý nghĩa lịch
sử: chiến dịch Điện Biên Phủ làm nên thắng lợi quân sự lớn nhât của quân ta
trong cuôc kháng chiến chống thực dân Pháp, buộc chúng phài kí Hiệp Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương. Còn chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao của cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất
đất nước.
Dù có những điểm
khác nhau nhưng cả hai chiến dịch Điện Biên Phủ và Hồ Chí MInh đều là những
chiến dịch quân sự mang tầm vóc lớn lao trong lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc ta. Đó là không chỉ là niềm tự hào của người Việt Nam mà còn là niềm tự hào
của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Câu 6, Cuối năm 1974 –
đầu năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng xác định kế hoạch giải phóng hoàn
toàn miền Nam như thế nào? Vì sao Tây Nguyên được chọn làm hướng tiến công chủ
yếu trong năm 1975?
Trả lời:
- Kế hoạch giải phóng miền Nam
của Bộ Chính trị Trung ương Đảng:
+ Cuối năm 1974- đầu năm 1975 Bộ
Chính trị Trung ương Đảng họp, sau khi phân tích tình hình thực tế đã đề ra kế
hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976.
+ Kế hoạch giải phóng miền Nam
trong bối cảnh tương quan lực lượng trên chiến trường hoàn toàn có lợi cho ta:
quân Mĩ rút về nước theo tinh thần Hiêp định Pari; quân Ngụy yếu đi nhiều do
không còn viện trợ của Mĩ; sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, khả năng chi
viện sức người, sức của của hậu phương cho chiến trường miền Nam ngày càng lớn.
Thực hiện chủ trương “tiếp tục con đường bạo lực” của Đảng trong Hội nghị 21
(7- 1973), quân dân ta liên tục tiến hành các hoạt động quân sự ở miền Nam và
giành được thắng lợi. Đặc biệt, chiến thắng Phước Long (6- 1-1975) đã cho thấy
khả năng đánh thắng của quân dân ta, sự suy yếu của quân đội Sài Gòn và khả
năng can thiệp trở lại của Mĩ là rất hạn chế. Vì thế, khi đề ra kế hoạch Bộ
Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu
hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.
+ Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh sự
cần thiết tranh thủ thời cơ đánh nhanh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và
của cho nhân dân, giữ gìn tốt các cơ sở kinh tế, công trình văn hóa,…giảm thiểu
sự tàn phá của chiến tranh.
- Tây Nguyên được chọn làm hướng
tiến công chủ yếu trong năm 1975 vì:
+ Tây Nguyên là địa bàn chiến
lược hết sức quan trọng mà ta và địch đều cố giữ, “ai chiếm được Tây Nguyên là
có thể khống chế cả Đông Dương”. Nếu giải phóng được Tây Nguyên ta có thể uy
hiếp Duyên hải Nam Trung Bộ, cô lập Huế- Đà Nẵng, đồng thời tạo áp lực xuống
phía nam đẩy quân đội Sài Gòn vào thế bị động.
+ Do nhận định sai hướng tiến
công của ta, địch chốt giữ ở đây một lực lượng mỏng, bố phòng còn nhiều sơ hở.
Bộ Chính trị cũng nhận định khả năng phản công của địch khi mất Tây Nguyên là
rất hạn chế, do đó có thể đánh được.
+ Thực tiễn cho thấy, chiến dịch
giải phóng Tây Nguyên diễn ra chưa đầy một tháng đã giành được thắng lợi, quân
đôi Sài Gòn phải rút về Duyên hải miền Trung. Cả vùng Tây Nguyên rộng lớn với
60 vạn dân đến ngày 24- 3- 1975 hoàn toàn giải phóng.Quân ta chuyển từ thế tiến
công chiến lược sang Tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.
Câu 7, Tóm tắt những
thắng lợi của quân Đồng minh ở châu Á trong năm 1945 và nêu tác động của những
thắng lợi đó đối với cách mạng Việt Nam.
Trả lời:
- Những thắng lợi của quân Đồng
minh ở châu Á trong năm 1945:
+ Đầu năm 1945, cùng với việc
tiêu diệt phát xít Đức ở châu Âu, quân Đồng minh đã giáng cho phát xít Nhật
những đòn nặng nề ở mặt trận châu Á- Thái Bình Dương, đến tháng 8-1945 quân
Nhật đã bị đã bị quét sạch khỏi Miến Điện và Phi-líp-pin.Cùng thời gian đó quân
đội Mĩ một mặt ném bom oanh tạc Nhật Bản, mặt khác đánh chiếm các đảo cực nam
nước này, tiêu diệt phần lớn không quân và hải quân Nhật.
+ Ngày 8- 8- 1945 Liên Xô tuyên
chiến với Nhật Bản. Hồng quân Liên Xô mở đợt tấn công như vũ bão vào đội quân
Quan Đông của Nhật ở vùng Đông Bắc Trung Quốc.
+ Ngày 6 và ngày 9- 8-1945 Mĩ ném
bom nguyên tử hủy diệt hai thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-xa-ki của Nhật Bản
làm 10 vạn người chết, hàng chục vạn người bị tàn phế.
+ Ngày 15- 8-1945 Nhật Bản chấp
nhận đầu hàng Đồng minh không điều kiện, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.
- Tác động đến Việt Nam: Những
thắng lợi của quân Đồng minh đã cổ vũ mạnh mẽ Cao trào kháng Nhật cứu nước của
nhân dân Viêt Nam, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Cách mạng tháng Tám
bùng nổ và nhanh chóng giành được thắng lợi.
+ Phát xít Nhật đầu hàng Đồng
minh, quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang
mang tột độ, thời cơ khách quan cho tổng khởi nghĩa đã đến.
+ Ngay từ ngày 13- 8- 1945, khi
nhận được thông tin Nhật Bản sắp đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt minh
lập tức thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, ra “Quân lệnh số 1”, chính thức
phát lệnh tổng khởi nghĩa trong cả nước.
+ Tiếp theo, Hội toàn quốc cùa
Đảng (ngày 14 và 15- 8) và Đại hội quốc dân (ngày 16 và 17- 8) họp ở Tân Trào
đã thông qua kế hoạch và tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, quyết
định giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào nước ta. Sau đó, chủ tịch
Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào cả nước kêu gọi mọi người đứng lên khởi nghĩa
giành chính quyền.
+ Ngày 19- 8, nhân dân ta giành
được chính quyền ở Hà Nội, tiếp đến là ở Huế (23- 8), Sài Gòn (25- 8) và đến
ngày 28- 8-1945, Tổng khởi nghĩa đã giành được thắng lợi trong cả nước, chế độ
phong kiến sụp đổ, chính quyền về tay nhân dân.
+ Ngày 2- 9-1945 tại quản trường
Ba Đình, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Hoài Thương
Download Đáp án tại đây
Nhận xét
Đăng nhận xét