ĐÁP ÁN ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA MÔN LỊCH SỬ NĂM 2013

Đáp án tham khảo



Câu 1.
Sau 40 năm xâm lược và bình định nước ta, đến năm 1897 thực dân Pháp bắt đầu tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên những chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam.
- Về kinh tế:
+ Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được du nhập vào nước ta thông qua việc chính quyền Pháp cho xây dựng hệ thống giao thông vận tải, khai thác khoán sản và xây dựng các cơ sở công nghiệp nhẹ, cướp đất nông nhiệp để trồng cây công nghiệp, sử dụng nguồn lao động rẻ mặt ở nước ta để phục vụ cho công nghiệp chính quốc. Kết quả là quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới.
+ Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.
- Về xã hội:
+ Hai giai cấp chính trong xã hội phong kiến là địa chủ và nông dân vẫn tồn tại và ngày càng phân hóa sâu sắc. Một bộ phận địa chủ ngày càng giàu lên và cấu kết với Pháp, một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có ý thức chống Pháp. Giai cấp nông dân bị bần cùng hóa và có một bộ phận đã trở thành công nhân.
+ Các giai cấp, tầng lớp mới ra đời: giai cấp công nhân xuất thân từ nông dân mới hình thành, lực lượng còn ít nhưng phân bố rất tập trung; tầng lớp tư sản dân tộc mới hình thành và bị tư bản Pháp chèn ép; tầng lớp tiểu tư sản mới ra đời và ngày càng đông đảo.
+ Các sĩ phu yêu nước cũng có nhiều chuyển biến về tư tưởng chính trị. Họ bắt đầu tiếp thu trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản.
- Mối quan hệ giữa chuyển biến kinh tế và chuyển biến xã hội:
+ Chuyển biến về kinh tế là tiền đề của chuyển biến xã hội. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam dưới chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất đã làm cho xã hội ngày càng phân hóa sâu sắc.
+ Dưới nền kinh tế phong kiến lạc hậu mới du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phát triển một cách ì ạch, các giai cấp, tầng lớp mới được hình thành trong xã hội Việt Nam chưa thể lớn mạnh, đủ sức đứng ra cầm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Câu 2.
- Qúa trình hình thành và mở rộng của hệ thống xã hội chủ nghĩa sau chiến tranh thế giới thứ hai:
+ Thắng lợi của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo điều kiện cho các nước Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Nam Tư, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni… được giải phóng và phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
+ Theo quy định của Hội nghị Pốtxđam, khu vực phía đông nước Đức do Liên Xô chiếm đóng. Được sự giúp đỡ của Liên Xô, các lực lượng dân chủ ở đây đã thành lập Nhà nước Cộng hòa dân chủ Đức (10 – 1949) theo chế độ chủ nghĩa xã hội.
+ Cách mạng dân chủ nhân dân (1945 – 1947) ở các nước Đông Âu với sự giúp đỡ của Liên Xô diễn ra thành công đã làm cho chủ nghĩa xã hội vượt ra khỏi phạm vi một nước, trở thành một hệ thống trên thế giới.
+ Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1945), cách mạng Trung Quốc (1949) và cách mạng Cuba (1959), hệ thống chủ nghĩa xã hội đã mở rộng không gian địa lý, từ phía Đông châu Á qua Liên bang Xô viết tới phần phía Đông châu Âu và lang sang vùng biển Caribe thuộc khu vực Mỹ La-tinh.
- Sự ra đời của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) năm 1949 và Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va năm 1955 đã góp phần củng cố khối đoàn kết và sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Trong nhiều thập niên, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã trở thành một lực lượng hùng hậu về chính trị - quân sự và kinh tế, chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao của khoa học – kỹ thuật thế giới.
- Ảnh hưởng của việc hình thành và mở rộng hệ thống xã hội chủ nghĩa đến quan hệ quốc tế:
+ Sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa sau chiến tranh thế giới đã tạo xu hướng hình thành hai phe đối lập: phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo và phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu. Trật tự thế giới từ đó phân thành hai cực do Mỹ và Liên Xô đúng đầu mỗi cực (Trật tự hai cực Ianta).
+ Việc hình thành Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) và Tổ chức hiệp ước Vác-sa-va của phe xã hội chủ nghĩa đã tạo nên sự đối trọng với Kế hoạch Mác-san và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) của phe tư bản chủ nghĩa dẫn đến cuộc chiến tranh lạnh kéo dài hơn 4 thập kỷ, với việc chạy đua vũ trang và tiến hành các cuộc chiến tranh cục bộ, đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh thế giới.
+ Dưới sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc sau chiến tranh thế giới thứ hai phát triển mạnh mẽ, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa sau của chủ nghĩa đến quốc, hình thành các quốc gia độc lập trẻ tuổi.
Câu 3.
- Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1920 đến năm 1930:
Thứ nhất, tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.
Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp, từ đó Người đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam, đó là con đường cách mạng vô sản.
Tại Đại hội  lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp được tổ chức vào tháng 12-1920, Người đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Điều đó càng thể hiện quyết tâm đi theo con đường cách mạng vô sản của Người.
Thứ hai, xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
          Năm 1921, Nguyến Ái Quốc cùng một số nhà yêu nước châu Phi thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, và cho ra đời báo Người cùng khổ. Năm 1923, Người sang Liên Xô tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và Đại hội V của Quốc tế cộng sản. Năm 1924, Người về Quảng Châu (Trung Quốc), được sự giúp đỡ của những người cách mạng Trung Quốc, Người cùng với các nhà yêu nước In-đô-nê-xi-a, Triều Tiên thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông.
Thứ ba, chuẩn bị về mặt tổ chức và tư tưởng, chính trị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về mặt tổ chức: Năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên – tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mở các lớp đào tạo cán bộ của Hội, đưa về nước hoạt động và đi sâu vào quần chúng nhân dân.
Về mặt tư tưởng, chính trị: thông qua các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Thanh niên, Đường Kách mệnh…Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, góp phần làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ.
Thứ tư, Triệu tập Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và đề ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Sự phát triển của phong trào yêu nước và cách mạng theo khuynh hướng vô sản đã dẫn đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn trong năm 1929.
Nhận thấy việc 3 tổ chức trên hoạt động riêng rẽ sẽ làm ảnh hướng đến sự phát triển chung của cách mạng cả nước, đầu năm 1930 Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm trở về Trung Quốc triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đây là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
- Tính đúng đắn, sáng tạo của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt:
Thứ nhất, tính đúng đắn, sáng tạo của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được thể hiện qua việc xác định đường lối chiến lược cách mạng của nước ta sẽ phải trải qua hai giai đoạn là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, với nhiệm vụ nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản phản cách mạng, giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng chính quyền công nông, chia lại ruộng đất cho dân cày. Nhưng nhiệm vụ chống đế quốc để giành lại độc lập được đưa lên hàng đầu, điều này rất phù hợp với hoàn cảnh là một nước thuộc địa nửa phong kiến của nước ta.
Thứ hai, theo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt xác định công nhân và nông dân là gốc của cách mạng, sau đó mới đến tiểu tư sản, trí thức, còn trung, tiểu địa chủ và tư sản thì lợi dụng hoặc trung lập, điều này đã góp phần mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sức mạnh cho cách mạng. Đây chính là điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc, phù hợp với đặc điểm của các tầng lớp xã hội ở nước ta lúc bấy giờ.
Ngoài ra, Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt còn nêu lên quan điểm đoàn kết quốc tế, gắn cách mạng nước ta với cách mạng thế giớic “phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới”, đồng thời cũng khẳng định vai trò lãnh đạo, quyết định mọi thắng lợi cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt chính do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo chính là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam. Cho thấy vai trò và công lao to lớn của Người đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam.
Câu 4.
Những điều kiện đưa đến cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
- Điều kiện khách quan:
+ Chiến tranh thế giới thứ hai ở vào thời điểm kết thúc: Tháng 5-1945 phát xít Đức bị tiêu diệt; Đầu tháng 8/1945, quân đồng minh tiến công mạnh mẽ vào các vị trí của quân Nhật ở Châu Á – Thái Bình Dương. Ngày 6 và 9-8-1945, Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản.
+ Ngày 9-8-1945, Liên Xô tấn công làm tan rã đạo quân Quan Đông của Nhật ở Trung Quốc. Ngày 15-8-1945, chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh. Bọn Nhật ở Đông Dương hoang mang, tạo cơ hội ngàn năm có một cho cách mạng Việt Nam.
+ Quân đội đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp phát xít chưa kéo vào nước ta.
+ Điều kiện khách quan có lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến.
- Điều kiện chủ quan:
+ Đảng cộng sản Đông Dương đã có quá trình chuẩn bị chu đáo với ba cao trào cách mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945. Trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939 - 1945, Đảng cộng sản Đông Dương đã lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị đầy đủ, chu đáo về mặt đường lối, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng và bước đầu tập dượt cho quần chúng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, nhân dân sẵn sàng nổi dậy khi có lệnh khởi nghĩa.
+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển mạnh mẽ, nhất là sau khi Nhật đảo chính Pháp. Toàn dân đoàn kết một lòng, Đảng kịp thời phát động tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.
+ Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ban hành quân lệnh số 1, phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
+ Từ ngày 14 đến 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc và quyết định những vấn đề về đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền...
+ Tiếp đó, từ ngày 16 đến 17-8-1945, Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào nhất trí tán thành quyết định lệnh Tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách của mặt trận Việt Minh, đồng thời lập uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức chính phủ cách mạng lâm thời do Hồ Chí Minh đứng đầu.
- Trong những điều kiện trên, thì điều kiện chủ quan giữ vai trò quyết định. Vì nếu không có sự chuẩn bị chu đáo của Đảng, thì cho dù điều kiện khách quan có thuận lợi, cũng không thể nổ ra một cuộc tổng khởi nghĩa được. Sự lãnh đạo của Đảng đã giữ vai trò quan trọng nhất.
Câu 5.
- Những thắng lợi có ý nghĩa quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta (1945 – 1954):
+ Chiến thắng Việt Bắc thu – đông 1947
+ Chiến thắng Biên giới thu – đông 1950
+ Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954
- Phân tích mối quan hệ của những thắng lợi đó:
Sau thất bại ở các đô thị, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp bước đầu bị thất bại.
Sang năm 1947, thực dân Pháp âm mưu tấn công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt quân chủ lực của ta, tiêu diệt đầu não của kháng chiến, phá tan căn cứ địa Biệt Bắc, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.  
Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp huy động 12000 quân tấn công lên Việt Bắc
Trước âm mưu và hành động của thực dân Pháp, chủ trương của ta là “phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”.
Thực hiện chủ trương đó, quân ta chặn địch trên mọi hướng tiến quân của chúng , bẻ gãy các gọng kìm Chợ Mới, Chợ Đồnhướng Đônghướng Tây.
Kết quả, sau hơn 2 tháng chiến đấu, ta loại 6000 địch, bắn rơi 16 máy bay, 11 tàu chiến ca nô các loại. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn, căn cứ địa Việt bắc được giữ vững, bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.
Chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 đã làm thất bại hoàn toàn âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta, mở ra giai đoạn mới cho cuộc kháng chiến.
Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến của ta ngày càng phát triển và gặp nhiều thuận lợi mới:
Tháng 10-1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước CHND Trung Hoa ra đời. Ngày 18-1-1950, chính phủ CHND Trung Hoa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta, Đến 30-1-1950 chính phủ Liên Xô và 1 tháng sau là các nước trong phe XHCN lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta.
Trong khi đó, sau hơn 5 năm chiến tranh, thực dân Pháp đã không thể thực hiện được các ý đồ xâm lược mà còn buộc phải chuyển sang đánh lâu dài. Điều đó đẩy thực dân Pháp vào hoàn cảnh khó khăn. Pháp đã buộc phải xin viện trợ của Mĩ để tiếp tục theo đuổi cuộc chiến.
Ngày 13-5-1949với sự đồng ý của Mĩ. Pháp đề ra kế hoạch Rơve âm mưutn công lên Việt Bắc lần thứ 2 để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Trước âm mơu mới của Pháp- Mĩ, tháng 6-1950, Đảng và Chính Phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt 1 bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông đườngbiên giới Việt trung, mở rộng củng cố căn cứ địa Việt Bắc.
Ngày 16-9-1950, chiến dịch bắt đầu, quân ta tấn công Đông Khêuy hiếp Thất Khê, cô lập Cao Bằng .
Đến 22-10-1950 quân địch đã phải rút cạy khỏi hàng loạt các cứ điểm dọc tuyến biên giới từ Cao bằng đến Lạng Sơn, đường số 4 được giải phóng.
Kết quả, sau hơn 1 tháng chiến đấu. ta loại 8000 địch, giải phóng 750 km đường biên giới Việt –Trung với 35 vạn dân, chọc thủng hành lang Đông-Tây,làm phá sản kế hoạch Rơve.
Chiến thắng Biên giới thu đông 1950 đã khai thông con đường liên lạc của ta với các nước XHCN, quân đội ta giành thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ, mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
Sau 8 năm chiến tranh, thực dân Pháp đã bị thiệt hại nghiêm trọng: 39 vạn quân thiệt mạng, chiến phí tiêu tốn 2000 tỉ phrăng, vùng chiếm đóng bị thu hẹp…Trước tình thế bị sa lầy, với sự can thiệp của Mĩ, Pháp đã cử Nava sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chính Pháp ở Đông Dương và tiến hành kế hoạch Nava nhằm tìm kiếm chiến thắng “kết thúc chiến tranh trong danh dự”
Tuy nhiên, trong Đông Xuân 1953- 1954, quân dân ta đã tổ chức các chiến dịch tiến công lớn: Tây Bắc, Tây Nguyên, Trung Lào, Hạ Lào làm phá sản bước đầu kế hoạch Nava. Đặc biệt, từ ngày 30-3 đến ngày 7-5-1954 ta tổ chức tấn công quân địch ở Điện Biên Phủ.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu, qua 3 đợt tấn công lớn, ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ lực lượng địch ở Điện Biên Phủ gồm 16.200 tên, hạ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí và cơ sở vật chất kĩ thuật của chúng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đập tan kế hoạch Nava, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở ĐD.Tạo đk thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao, buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ.

Bằng những chiến thắng nêu trên, quân ta đã đi từ thế phòng ngự sang thế tiến công và tổng tiến công để đi tới thắng lợi cuối cùng.

Câu 6.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã xác định con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và đặc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đường lối đó đã được Đảng Lao động Việt Nam phát triển và thực hiện một cách triệt để. Đó là việc thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trên hai miền Tổ quốc trong giai đoạn 1954 – 1975.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình ở miền Bắc được lập lại, song ở miền Nam, đế quốc Mỹ dựng nên chính quyền tai sai Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cách nước ta lâu dài, hòng biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông Nam Á. Do đó, sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chưa trên cả nước chưa hoàn thành.
Nhiệm vụ cách mạng của cả nước trong giai đoạn 1954 – 1975 được Đảng xác định là vừa phải hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa, vừa phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Thực hiện nhiệm vụ trên, trong giai đoạn 1954 – 1960, miền Bắc đã tiến hành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, đồng thời cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - xã hội tạo nền tảng cơ sở vật chất để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam đứng lên đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm, từ đấu tranh hòa bình, giữ gìn phát triển lực lượng cách mạng chuyển sang đấu tranh bạo lực cách mạng mà đỉnh cao là phong trào “Đồng khởi” (1959-1960).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng (9-1960) đã đề ra nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước và nhiệm vụ cách mạng của từng miền; chỉ rõ vai trò của cách mạng từng miền, mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam. Cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết gắn bó và tác động động lẫn nhau nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất đất nước.
Đối với miền Bắc, Đại hội khẳng định đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với miền Nam, từ Hội nghị trung ương lần thứ 15 (1-1959), Đảng ta đã xác định: Ngoài con đường dùng bạo lực cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác.
Ở miền Bắc, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, sau 21 năm nỗ lực phấn đấu, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bước đầu được hình thành. Dù chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất, thiệt hại lớn về người, song không có nạn đói, dịch bệnh và sự rối loạn xã hội. Văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường.
Quân dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, điển hình là trận "Điện Biên Phủ trên không" trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng từ 18 đến 30-12-1972 (bắn rơi 81 máy bay Mỹ, có 34 B52, bắt 43 giặc lái Mỹ). Miền Bắc không chỉ chia lửa với các chiến trường mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa của cách mạng cả nước và nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến trường miền Nam.
Ở miền Nam, với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân ta đã vượt lên mọi gian khổ hy sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Trong giai đoạn 1954 - 1960 đã đánh bại “Chiến tranh đơn phương” của Mĩ - Ngụy, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, giai đoạn 1961 - 1965 đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặt biệt” của Mỹ, giai đoạn 1965 - 1968 đã đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ và chư hầu, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pari; giai đoạn 1969 - 1975 đã đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ và tay sai mà đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Câu 7.
- Những sự kiện biểu hiện xu thế hòa hoãn giữa 2 phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa trong hai thập niên 70 và 80 của thế kỷ XX.
Từ đầu những năm 70 của thế kỉ XX, xu hướng hòa hoãn Đông-Tây đã xuất hiện với những cuộc gặp gỡ thương lượng Xô-Mĩ, mặc dù còn những diễn biến phức tạp.
Trên cơ sở những thỏa thuận Xô-Mĩ, ngày 9-11-1972, hai nước Cộng hòa Dân chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức đã kí kết tại Bon Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức. Theo đó, hai bên tôn trọng không điều kiện chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nước châu Âu trê đường biên giới hiện tại. Hai bên thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện trên cơ sở bình đẳng và giải quyết các vấn đề tranh chấp hoàn toàn bằng biện pháp hòa bình. Nhờ đó, tình hình căng thẳng ở châu Âu giảm đi rõ rệt.
Cũng trong năm 1972, hai siêu cường Liên Xô và MĨ đã thỏa thuận việc hạn chế vũ khí chiến lược và kí Hiệp ước về việc hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa (ABM) ngày 26-5, sau đó là Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược  (SALT-1).
Đầu tháng 8-1975, 33 nước châu Âu cùng với Mĩ và Canada kí kết Định ước Henxinki. Định ước tuyên bố: khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia (như bình đẳng, chủ quyền, sự bền vững của đường biên giới, giải quyết bằng biện pháp hòa bình các cuộc tranh chấp…nhằm bảo đảm an ninh châu Âu) và sự hợp tác giữa các nước (về kinh tế, khoa học-kĩ thuật, bảo vệ môi trường v.v ..). Định ước Henxinki (1975) đã tạo nên một cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình, an ninh ở châu lục này. 
Cùng với việc sự kiện trên, từ đầu những năm 70, hai siêu cường Xô-Mĩ đã tiến hành những cuộc gặp cấp cao, nhất là từ khi M. Goocbachốp lên cầm quyền ở Liên Xô năm 1985. Nhiều văn kiện hợp tác về kinh tế và khoa học-kĩ thuật đã được kí kết giữa hai nước, nhưng trọng tâm là những thỏa thuận về việc thủ tiêu các tên lửa tầm trung ở châu Âu, cắt giảm vũ khí chiến lược cũng như hạn chế cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước.
Xu thế hòa hoãn Đông – Tây đã đưa đến việc kết thúc Chiến tranh lạnh. Tháng 12-1989, trong cuộc gặp không chính thức tại đảo Manta (Địa Trung Hải), hai nhà lãnh đạo M. Goocbachốp và GBusơ (cha) đã chính thức cùng tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh.
Chiế tranh lạnh chấm dứt đã mở ra chiều hướng và những điều kiện để giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, xung đột đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới như Ápganixtan, Campuchia, Namibia v.v..
- Dưới tác động của xu thế hòa hoãn Đông – Tây, quan hệ giữa các nước Đông Nam Á cũng có nhiều thay đổi.
+ Sự thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam (1975) kéo theo sự tan rã của khối SEATO, chấm dứt tình trạng một số nước như Thái Lan, Phi-lip-pin dính líu vào Việt Nam. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc bình thường hóa quan hệ giữa các nước sáng lập ASEAN và các nước Đông Dương.
+ Các nước Đông Nam Á lấy hòa bình, ổn định và phát triển kinh tế làm trọng tâm, điều đó được thể hiện thông qua việc 5 nước ASEAN ký Hiệp ước Bali (2-1976).
+ Sau nhiều năm quan hệ trong khu vực trở nên căng thẳng bởi vấn đề Cam-pu-chia, đến năm 1989 Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, mở ra thời kỳ mới cho quan hệ giữa các nước Đông Nam Á.

Hoài Thương

Download Đáp án tại đây








Nhận xét

Đăng nhận xét