Đáp án tham khảo
Câu
1.
Sau
40 năm xâm lược và bình định nước ta, đến năm 1897 thực dân Pháp bắt đầu tiến
hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp đã tạo nên những chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam.
- Về kinh tế:
+ Nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa được du nhập vào nước ta thông qua việc chính quyền Pháp cho xây dựng hệ
thống giao thông vận tải, khai thác khoán sản và xây dựng các cơ sở công nghiệp
nhẹ, cướp đất nông nhiệp để trồng cây công nghiệp, sử dụng nguồn lao động rẻ mặt
ở nước ta để phục vụ cho công nghiệp chính quốc. Kết quả là quan hệ kinh tế
nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới, những trung tâm kinh tế
và tụ điểm cư dân mới.
+ Nhưng thực dân Pháp
không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà
vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột
tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam
không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế
Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.
- Về xã hội:
+ Hai giai cấp chính
trong xã hội phong kiến là địa chủ và nông dân vẫn tồn tại và ngày càng phân
hóa sâu sắc. Một bộ phận địa chủ ngày càng giàu lên và cấu kết với Pháp, một bộ
phận địa chủ vừa và nhỏ có ý thức chống Pháp. Giai cấp nông dân bị bần cùng hóa
và có một bộ phận đã trở thành công nhân.
+ Các giai cấp, tầng lớp
mới ra đời: giai cấp công nhân xuất thân từ nông dân mới hình thành, lực lượng
còn ít nhưng phân bố rất tập trung; tầng lớp tư sản dân tộc mới hình thành và bị
tư bản Pháp chèn ép; tầng lớp tiểu tư sản mới ra đời và ngày càng đông đảo.
+ Các sĩ phu yêu nước
cũng có nhiều chuyển biến về tư tưởng chính trị. Họ bắt đầu tiếp thu trào lưu
tư tưởng dân chủ tư sản.
- Mối quan hệ giữa chuyển
biến kinh tế và chuyển biến xã hội:
+ Chuyển biến về kinh tế
là tiền đề của chuyển biến xã hội. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam dưới
chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất đã làm cho xã hội ngày càng phân
hóa sâu sắc.
+ Dưới nền kinh tế
phong kiến lạc hậu mới du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phát triển
một cách ì ạch, các giai cấp, tầng lớp mới được hình thành trong xã hội Việt
Nam chưa thể lớn mạnh, đủ sức đứng ra cầm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Câu
2.
- Qúa trình hình thành
và mở rộng của hệ thống xã hội chủ nghĩa sau chiến tranh thế giới thứ hai:
+ Thắng lợi của Liên Xô
trong chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo điều kiện cho các nước Đông Âu như Ba
Lan, Tiệp Khắc, Nam Tư, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni… được giải phóng và phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa.
+ Theo quy định của Hội
nghị Pốtxđam, khu vực phía đông nước Đức do Liên Xô chiếm đóng. Được sự giúp đỡ
của Liên Xô, các lực lượng dân chủ ở đây đã thành lập Nhà nước Cộng hòa dân chủ
Đức (10 – 1949) theo chế độ chủ nghĩa xã hội.
+ Cách mạng dân chủ
nhân dân (1945 – 1947) ở các nước Đông Âu với sự giúp đỡ của Liên Xô diễn ra
thành công đã làm cho chủ nghĩa xã hội vượt ra khỏi phạm vi một nước, trở thành
một hệ thống trên thế giới.
+ Với thắng lợi của
cách mạng Việt Nam (1945), cách mạng Trung Quốc (1949) và cách mạng Cuba
(1959), hệ thống chủ nghĩa xã hội đã mở rộng không gian địa lý, từ phía Đông
châu Á qua Liên bang Xô viết tới phần phía Đông châu Âu và lang sang vùng biển
Caribe thuộc khu vực Mỹ La-tinh.
- Sự ra đời của Hội đồng
tương trợ kinh tế (SEV) năm 1949 và Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va năm 1955 đã góp
phần củng cố khối đoàn kết và sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Trong nhiều
thập niên, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã trở thành một lực lượng hùng hậu về
chính trị - quân sự và kinh tế, chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao của khoa học – kỹ thuật
thế giới.
- Ảnh hưởng của việc
hình thành và mở rộng hệ thống xã hội chủ nghĩa đến quan hệ quốc tế:
+ Sự hình thành hệ thống
xã hội chủ nghĩa sau chiến tranh thế giới đã tạo xu hướng hình thành hai phe đối
lập: phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo và phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm
đầu. Trật tự thế giới từ đó phân thành hai cực do Mỹ và Liên Xô đúng đầu mỗi cực
(Trật tự hai cực Ianta).
+ Việc hình thành Hội đồng
tương trợ kinh tế (SEV) và Tổ chức hiệp ước Vác-sa-va của phe xã hội chủ nghĩa
đã tạo nên sự đối trọng với Kế hoạch Mác-san và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO) của phe tư bản chủ nghĩa dẫn đến cuộc chiến tranh lạnh kéo dài hơn
4 thập kỷ, với việc chạy đua vũ trang và tiến hành các cuộc chiến tranh cục bộ,
đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh thế giới.
+ Dưới sự giúp đỡ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc sau chiến
tranh thế giới thứ hai phát triển mạnh mẽ, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa
sau của chủ nghĩa đến quốc, hình thành các quốc gia độc lập trẻ tuổi.
Câu
3.
- Vai trò của Nguyễn Ái
Quốc đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1920 đến năm 1930:
Thứ
nhất, tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.
Giữa
năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội
Pháp, từ đó Người đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam, đó là
con đường cách mạng vô sản.
Tại
Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp
được tổ chức vào tháng 12-1920, Người đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc
tế cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Điều đó càng thể hiện quyết
tâm đi theo con đường cách mạng vô sản của Người.
Thứ
hai, xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Năm 1921, Nguyến Ái Quốc cùng một số nhà yêu nước châu Phi
thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, và cho ra đời báo Người cùng khổ. Năm 1923,
Người sang Liên Xô tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và Đại hội V của Quốc tế cộng
sản. Năm 1924, Người về Quảng Châu (Trung Quốc), được sự giúp đỡ của những người
cách mạng Trung Quốc, Người cùng với các nhà yêu nước In-đô-nê-xi-a, Triều Tiên
thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông.
Thứ
ba, chuẩn bị về mặt tổ chức và tư tưởng, chính trị cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Về
mặt tổ chức: Năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên – tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mở các lớp đào tạo cán bộ của Hội, đưa về nước
hoạt động và đi sâu vào quần chúng nhân dân.
Về
mặt tư tưởng, chính trị: thông qua các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân
Pháp, báo Thanh niên, Đường Kách mệnh…Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
vào Việt Nam, góp phần làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát
triển mạnh mẽ.
Thứ
tư, Triệu tập Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và đề ra cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng.
Sự
phát triển của phong trào yêu nước và cách mạng theo khuynh hướng vô sản đã dẫn
đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản
đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn trong năm 1929.
Nhận
thấy việc 3 tổ chức trên hoạt động riêng rẽ sẽ làm ảnh hướng đến sự phát triển
chung của cách mạng cả nước, đầu năm 1930 Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm trở về Trung
Quốc triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất
là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt và Điều lệ tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đây là cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng ta.
- Tính đúng đắn, sáng tạo
của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt:
Thứ
nhất, tính đúng đắn, sáng tạo của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được
thể hiện qua việc xác định đường lối chiến lược cách mạng của nước ta sẽ phải
trải qua hai giai đoạn là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội
chủ nghĩa “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”, với nhiệm vụ nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn
phong kiến và tư sản phản cách mạng, giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng
chính quyền công nông, chia lại ruộng đất cho dân cày. Nhưng nhiệm vụ chống đế
quốc để giành lại độc lập được đưa lên hàng đầu, điều này rất phù hợp với hoàn
cảnh là một nước thuộc địa nửa phong kiến của nước ta.
Thứ
hai, theo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt xác định công nhân và nông dân
là gốc của cách mạng, sau đó mới đến tiểu tư sản, trí thức, còn trung, tiểu địa
chủ và tư sản thì lợi dụng hoặc trung lập, điều này đã góp phần mở rộng khối đại
đoàn kết toàn dân, tăng cường sức mạnh cho cách mạng. Đây chính là điểm sáng tạo
của Nguyễn Ái Quốc, phù hợp với đặc điểm của các tầng lớp xã hội ở nước ta lúc
bấy giờ.
Ngoài
ra, Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt còn nêu lên quan điểm đoàn kết quốc
tế, gắn cách mạng nước ta với cách mạng thế giớic “phải liên lạc với các dân tộc
bị áp bức và vô sản thế giới”, đồng thời cũng khẳng định vai trò lãnh đạo, quyết
định mọi thắng lợi cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của
giai cấp công nhân.
Nội
dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt chính do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
chính là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô
sản vào thực tiễn Việt Nam. Cho thấy vai trò và công lao to lớn của Người đối với
cách mạng và dân tộc Việt Nam.
Câu
4.
Những điều kiện đưa đến
cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
- Điều kiện khách quan:
+ Chiến tranh thế giới
thứ hai ở vào thời điểm kết thúc: Tháng 5-1945 phát xít Đức bị tiêu diệt; Đầu
tháng 8/1945, quân đồng minh tiến công mạnh mẽ vào các vị trí của quân Nhật ở
Châu Á – Thái Bình Dương. Ngày 6 và 9-8-1945, Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống
hai thành phố Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản.
+ Ngày 9-8-1945, Liên
Xô tấn công làm tan rã đạo quân Quan Đông của Nhật ở Trung Quốc. Ngày
15-8-1945, chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh. Bọn Nhật ở Đông Dương
hoang mang, tạo cơ hội ngàn năm có một cho cách mạng Việt Nam.
+ Quân đội đồng minh
làm nhiệm vụ giải giáp phát xít chưa kéo vào nước ta.
+ Điều kiện khách quan
có lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến.
- Điều kiện chủ quan:
+ Đảng cộng sản Đông
Dương đã có quá trình chuẩn bị chu đáo với ba cao trào cách mạng: 1930 - 1931,
1936 - 1939 và 1939 - 1945. Trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939 -
1945, Đảng cộng sản Đông Dương đã lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị đầy đủ, chu đáo
về mặt đường lối, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng
và bước đầu tập dượt cho quần chúng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, nhân
dân sẵn sàng nổi dậy khi có lệnh khởi nghĩa.
+ Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Mặt trận Việt Minh, cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển mạnh mẽ, nhất
là sau khi Nhật đảo chính Pháp. Toàn dân đoàn kết một lòng, Đảng kịp thời phát
động tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.
+ Ngày 13-8-1945, Trung
ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ban hành
quân lệnh số 1, phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
+ Từ ngày 14 đến
15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) thông
qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc
và quyết định những vấn đề về đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền...
+ Tiếp đó, từ ngày
16 đến 17-8-1945, Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào nhất trí tán thành quyết định lệnh
Tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách của mặt trận Việt Minh, đồng thời lập
uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức chính phủ cách mạng lâm thời do Hồ Chí
Minh đứng đầu.
- Trong những điều kiện
trên, thì điều kiện chủ quan giữ vai trò quyết định. Vì nếu không có sự chuẩn bị
chu đáo của Đảng, thì cho dù điều kiện khách quan có thuận lợi, cũng không thể
nổ ra một cuộc tổng khởi nghĩa được. Sự lãnh đạo của Đảng đã giữ vai trò quan
trọng nhất.
Câu
5.
- Những thắng lợi có ý
nghĩa quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta
(1945 – 1954):
+ Chiến thắng Việt Bắc
thu – đông 1947
+ Chiến thắng Biên giới
thu – đông 1950
+ Chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ 1954
- Phân tích mối quan hệ
của những thắng lợi đó:
Sau thất bại ở các đô thị, kế
hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp bước đầu bị thất bại.
Sang năm 1947, thực dân Pháp âm
mưu tấn công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt quân chủ lực của ta,
tiêu diệt đầu não của kháng chiến, phá tan căn cứ địa Biệt Bắc, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp huy động 12000
quân tấn công lên Việt Bắc
Trước âm mưu và hành động của
thực dân Pháp, chủ trương của ta là “phải phá
tan cuộc tấn
công mùa đông của giặc Pháp”.
Thực hiện chủ trương đó, quân
ta chặn địch trên mọi hướng tiến quân của chúng , bẻ gãy các gọng kìm Chợ Mới, Chợ Đồn, hướng Đông, hướng Tây.
Kết quả, sau hơn 2 tháng chiến
đấu, ta loại 6000 địch, bắn rơi 16 máy bay, 11 tàu chiến ca nô
các loại. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn, căn cứ địa Việt bắc được giữ
vững, bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.
Chiến thắng Việt Bắc thu đông
1947 đã làm thất bại hoàn toàn âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân
Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta, mở ra giai
đoạn mới cho cuộc kháng chiến.
Bước sang năm 1950, cuộc kháng
chiến của ta ngày càng phát triển và gặp nhiều thuận lợi mới:
Tháng 10-1949, cách
mạng Trung Quốc thành công, nước CHND Trung Hoa ra đời. Ngày 18-1-1950, chính phủ CHND Trung Hoa công nhận và đặt quan hệ
ngoại giao với ta,
Đến 30-1-1950 chính phủ Liên Xô và 1 tháng sau là các nước
trong phe XHCN lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta.
Trong
khi đó, sau hơn 5 năm chiến tranh, thực dân Pháp đã không thể thực hiện được
các ý đồ xâm lược mà còn buộc phải chuyển sang đánh lâu dài. Điều đó đẩy thực
dân Pháp vào hoàn cảnh khó khăn. Pháp đã buộc phải xin viện trợ của Mĩ để tiếp
tục theo đuổi cuộc chiến.
Ngày 13-5-1949, với sự đồng ý của Mĩ. Pháp đề
ra kế
hoạch Rơve âm mưutấn công lên
Việt
Bắc lần thứ 2 để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Trước
âm mơu mới của Pháp- Mĩ, tháng 6-1950, Đảng
và Chính Phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu
diệt 1 bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông đườngbiên giới Việt trung, mở rộng củng cố căn cứ địa Việt Bắc.
Ngày 16-9-1950, chiến dịch bắt đầu,
quân ta tấn công Đông Khê, uy hiếp
Thất Khê, cô lập Cao Bằng .
Đến 22-10-1950 quân địch đã phải rút cạy khỏi
hàng loạt các cứ điểm dọc tuyến biên giới từ Cao bằng đến Lạng Sơn, đường số 4 được giải phóng.
Kết quả, sau hơn 1 tháng chiến
đấu. ta loại 8000 địch, giải phóng 750 km đường biên
giới Việt –Trung với 35 vạn dân, chọc thủng hành lang Đông-Tây,làm phá sản kế hoạch Rơve.
Chiến
thắng Biên giới thu đông 1950 đã khai thông con đường
liên lạc của ta với các nước XHCN, quân đội ta giành thế chủ động trên chiến
trường Bắc Bộ,
mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
Sau 8 năm chiến tranh, thực dân
Pháp đã bị thiệt hại nghiêm trọng: 39 vạn quân thiệt mạng, chiến phí tiêu tốn
2000 tỉ phrăng, vùng chiếm đóng bị thu hẹp…Trước tình thế bị sa lầy, với sự can
thiệp của Mĩ, Pháp đã cử Nava sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chính Pháp ở Đông
Dương và tiến hành kế hoạch Nava nhằm tìm kiếm chiến thắng “kết thúc chiến
tranh trong danh dự”
Tuy nhiên, trong Đông Xuân
1953- 1954, quân dân ta đã tổ chức các chiến dịch tiến công lớn: Tây Bắc, Tây
Nguyên, Trung Lào, Hạ Lào làm phá sản bước đầu kế hoạch Nava. Đặc biệt, từ ngày
30-3 đến ngày 7-5-1954 ta tổ chức tấn công quân địch ở Điện Biên Phủ.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu, qua 3 đợt tấn công lớn, ta
tiêu diệt và bắt sống toàn bộ lực lượng địch ở Điện Biên Phủ gồm 16.200 tên, hạ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí và cơ sở vật chất kĩ
thuật của chúng.
Chiến
thắng Điện Biên Phủ đã đập tan kế hoạch
Nava, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay
chuyển cục diện chiến tranh ở ĐD.Tạo đk thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại
giao,
buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ.
Bằng
những chiến thắng nêu trên, quân ta đã đi từ thế phòng ngự sang thế tiến công
và tổng tiến công để đi tới thắng lợi cuối cùng.
Câu 6.
Ngay
từ khi mới thành lập, Đảng ta đã xác định con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Và đặc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đường
lối đó đã được Đảng Lao động Việt Nam phát triển và thực hiện một cách triệt để.
Đó là việc thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
và cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trên hai miền Tổ quốc trong giai
đoạn 1954 – 1975.
Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình ở miền Bắc được lập lại, song ở miền Nam, đế
quốc Mỹ dựng nên chính quyền tai sai Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cách nước ta lâu
dài, hòng biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông
Dương và Đông Nam Á. Do đó, sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chưa
trên cả nước chưa hoàn thành.
Nhiệm
vụ cách mạng của cả nước trong giai đoạn 1954 – 1975 được Đảng xác định là vừa
phải hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đưa miền Bắc
tiến lên xã hội chủ nghĩa, vừa phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Thực
hiện nhiệm vụ trên, trong giai đoạn 1954 – 1960, miền Bắc đã tiến hành cải cách
ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, đồng thời cải tạo
quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - xã hội tạo nền tảng cơ sở vật
chất để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam đứng lên đấu tranh chống
chế độ Mỹ - Diệm, từ đấu tranh hòa bình, giữ gìn phát triển lực lượng cách mạng
chuyển sang đấu tranh bạo lực cách mạng mà đỉnh cao là phong trào “Đồng khởi”
(1959-1960).
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng (9-1960) đã đề ra nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng cả nước và nhiệm vụ cách mạng của từng miền; chỉ rõ vai trò của
cách mạng từng miền, mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng
cả nước. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có vai trò quyết định trực
tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam. Cách mạng hai miền có quan hệ mật
thiết gắn bó và tác động động lẫn nhau nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất đất nước.
Đối
với miền Bắc, Đại hội khẳng định đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Đối
với miền Nam, từ Hội nghị trung ương lần thứ 15 (1-1959), Đảng ta đã xác định:
Ngoài con đường dùng bạo lực cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường
nào khác.
Ở
miền Bắc, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, sau 21 năm nỗ lực phấn đấu,
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Một
chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bước đầu được hình thành. Dù chiến
tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất, thiệt hại lớn về người, song
không có nạn đói, dịch bệnh và sự rối loạn xã hội. Văn hoá, xã hội, y tế, giáo
dục không những được duy trì mà còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp
phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường.
Quân dân miền Bắc đã
đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, điển hình là trận "Điện
Biên Phủ trên không" trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng từ 18 đến 30-12-1972
(bắn rơi 81 máy bay Mỹ, có 34 B52, bắt 43 giặc lái Mỹ). Miền Bắc không chỉ chia
lửa với các chiến trường mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa của cách
mạng cả nước và nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến trường miền Nam.
Ở
miền Nam, với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân ta đã vượt lên mọi
gian khổ hy sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Trong giai đoạn 1954 - 1960 đã đánh bại “Chiến
tranh đơn phương” của Mĩ - Ngụy, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế
tiến công, giai đoạn 1961 - 1965 đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh
bại chiến lược “Chiến tranh đặt biệt” của Mỹ, giai đoạn 1965 - 1968 đã đánh bại
chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ và chư hầu, buộc Mỹ phải xuống thang chiến
tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pari; giai đoạn 1969 - 1975
đã đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ và tay sai mà đỉnh cao
là Đại thắng Mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan toàn bộ
chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải phóng
hoàn toàn miền Nam.
Câu 7.
- Những sự kiện biểu hiện xu thế hòa hoãn giữa 2 phe tư bản chủ nghĩa và
xã hội chủ nghĩa trong hai thập niên 70 và 80 của thế kỷ XX.
Từ đầu những năm 70 của thế kỉ XX, xu hướng
hòa hoãn Đông-Tây đã xuất hiện với những cuộc gặp gỡ thương lượng Xô-Mĩ, mặc dù
còn những diễn biến phức tạp.
Trên cơ sở những thỏa thuận Xô-Mĩ, ngày
9-11-1972, hai nước Cộng hòa Dân chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức đã kí kết tại
Bon Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức. Theo đó, hai
bên tôn trọng không điều kiện chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng
như các nước châu Âu trê đường biên giới hiện tại. Hai bên thiết lập quan hệ
láng giềng thân thiện trên cơ sở bình đẳng và giải quyết các vấn đề tranh chấp
hoàn toàn bằng biện pháp hòa bình. Nhờ đó, tình hình căng thẳng ở châu Âu giảm
đi rõ rệt.
Cũng trong năm 1972, hai siêu cường Liên Xô
và MĨ đã thỏa thuận việc hạn chế vũ khí chiến lược và kí Hiệp ước về việc hạn chế hệ thống phòng chống
tên lửa (ABM) ngày 26-5, sau đó là Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (SALT-1).
Đầu tháng 8-1975, 33 nước châu Âu cùng với Mĩ
và Canada kí kết Định ước
Henxinki. Định ước tuyên bố: khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ
giữa các quốc gia (như bình đẳng, chủ quyền, sự bền vững của đường biên giới,
giải quyết bằng biện pháp hòa bình các cuộc tranh chấp…nhằm bảo đảm an ninh
châu Âu) và sự hợp tác giữa các nước (về kinh tế, khoa học-kĩ thuật, bảo vệ môi
trường v.v ..). Định ước Henxinki (1975) đã tạo nên một cơ chế giải
quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình, an ninh ở châu lục này.
Cùng với việc sự kiện trên, từ đầu những năm
70, hai siêu cường Xô-Mĩ đã tiến hành những cuộc gặp cấp cao, nhất là từ khi M.
Goocbachốp lên cầm quyền ở Liên Xô năm 1985. Nhiều văn kiện hợp tác về kinh tế
và khoa học-kĩ thuật đã được kí kết giữa hai nước, nhưng trọng tâm là những thỏa
thuận về việc thủ tiêu các tên lửa tầm trung ở châu Âu, cắt giảm vũ khí chiến
lược cũng như hạn chế cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước.
Xu thế hòa hoãn Đông – Tây đã đưa đến việc kết
thúc Chiến tranh lạnh. Tháng 12-1989, trong cuộc gặp không chính thức tại đảo
Manta (Địa Trung Hải), hai nhà lãnh đạo M. Goocbachốp và GBusơ (cha) đã chính
thức cùng tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh.
Chiế tranh lạnh chấm dứt đã mở ra chiều hướng
và những điều kiện để giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, xung đột đang diễn
ra ở nhiều khu vực trên thế giới như Ápganixtan, Campuchia, Namibia v.v..
- Dưới tác động của xu thế hòa hoãn Đông – Tây, quan hệ giữa các nước
Đông Nam Á cũng có nhiều thay đổi.
+ Sự thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam (1975) kéo theo sự tan
rã của khối SEATO, chấm dứt tình trạng một số nước như Thái Lan, Phi-lip-pin
dính líu vào Việt Nam. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc bình thường hóa quan hệ
giữa các nước sáng lập ASEAN và các nước Đông Dương.
+ Các nước Đông Nam Á lấy hòa bình, ổn định và phát triển kinh tế làm trọng
tâm, điều đó được thể hiện thông qua việc 5 nước ASEAN ký Hiệp ước Bali
(2-1976).
+ Sau nhiều năm quan hệ trong khu vực trở nên căng thẳng bởi vấn đề
Cam-pu-chia, đến năm 1989 Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, mở ra thời kỳ mới
cho quan hệ giữa các nước Đông Nam Á.
Hoài Thương
Download Đáp án tại đây
bisuni-gu Robin Brown https://wakelet.com/wake/sM8fj2wV-WrLohxdjjjzc
Trả lờiXóazievatycatch