ĐÁP ÁN ĐỀ THI CHỌN ĐỘI TUYỂN DỰ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA MÔN LỊCH SỬ TỈNH KIÊN GIANG NĂM HỌC 2017 – 2018

 

ĐÁP ÁN THAM KHẢO
Câu 1. (3,0 điểm)
Vì sao sau Cách mạng mạng tháng Hai năm 1917 ở nước Nga lại xuất hiện hai chính quyền song song tồn tại? Lênin và Đảng Bôn-sê-vích Nga đã có chủ trương gì để chấm dứt tình trạng đó? Nêu ý nghĩa lịch sử và ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam.
Vì sao sau Cách mạng mạng tháng Hai năm 1917 ở nước Nga lại xuất hiện hai chính quyền song song tồn tại?
+Đầu thế kỉ XX, chế độ Nga hoàng Nicolai II khủng hoảng trầm trọng, tình hình kinh tế chính trị không ổn định, xã hội bất ổn nhiều mâu thuẫn gây gắt. Việc Nga tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất càng làm phơi bày sự khủng hoảng và lạc hậu của đất nước. Tình hình đó đã đưa đất nước Nga tiến sát đến một cuộc cách mạng.
+Ngày 27/2/1917, Cách mạng dân chủ tư sản đã lật đổ chế độ Nga hoàng. Các xô viết đại biểu của công nhân và các xô viết đại biểu của binh lính toàn Pêtơrôgrat đã họp và bầu ra cơ quan lãnh đạo thống nhất là xô viết đại biểu Công nhân và binh lính Pêtơrôgrat để đứng ra quản lí nhà nước cách mạng.
+Cùng thời gian ấy, giai cấp tư sản cũng ra sức vận động để nắm chính quyền. Được những người Mensêvích và Xã hội cách mạng ủng hộ, 2/3/1917, giai cấp tư sản đứng ra thành lập Chính phủ lâm thời tư sản.
+Như thế, sau Cách mạng tháng Hai, ở nước Nga xuất hiện một cục diện chính trị độc đáo chưa từng thấy, đó là sự tồn tại song song hai chính quyền: Chính phủ tư sản lâm thời và chính quyền Xô viết. Chính phủ tư sản lâm thời chiếm ưu thế, nắm quyền lực nhà nước. Chính quyền Xô viết tuy không nắm các cơ quan quyền lực nhưng lại có sức mạnh cách mạng, được nhân dân và binh lính ủng hộ. Cục diện kì lạ này phản ánh tương quan so sánh lực lượng giữa giai cấp tư sản và vô sản, chưa bên nào đủ sức để loại bên nào. Hai chính quyền này đại diện cho hai giai cấp khác nhau, giành lợi ích khác nhau… tất yếu xảy ra cuộc đấu tranh.
Lênin và Đảng Bôn-sê-vích Nga đã có chủ trương gì để chấm dứt tình trạng đó?
+Ngày 3/4/1917, Lênin từ Thụy Sĩ về Pêtơrôgrat đọc bản Luận cương tháng Tư nêu rõ chủ trương của Đảng là không ủng hộ Chính phủ lâm thời tư sản và kêu gọi chuyển chính quyền về tay các xô viết một cách hòa bình, chấm dứt tình trạng hai chính quyền song song cùng tồn tại. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng đối với việc đưa cách mạng Nga bước sang giai đoạn mới, cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+Khi điều kiện khởi nghĩa đã chin muồi, Lê nin bí mật về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng, vạch ra kế hoạch khởi nghĩa… Khi kế hoạch bị lộ, Người đã có quyết định kịp thời, sáng suốt là khởi nghĩa trước 1 ngày làm cho kẻ thù bất ngờ, không kịp trở tay. Cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi nhanh chóng và ít tổn thất.
+Đêm ngày 25/10/1917, Đại hội Xô viết toàn Nga đã họp tuyên bố thành lập chính quyền Xô viết do Lê nin đứng đầu, thông qua Sắc lệnh hòa bình và sắc lệnh ruộng đất đáp ứng nguyện vọng cấp thiết cho nhân dân. Chính quyền Xô viết do Lê nin đứng đầu còn thực hiện nhiều biện pháp nhằm xây dựng và bảo vệ chính quyền Xô viết còn non trẻ.
Nêu ý nghĩa lịch sử và ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam.
+Ý nghĩa lịch sử:
Thắng lợi này đã mở ra kỉ nguyên mới làm thay đổi hoàn toàn tình hình đất nước và số phận hàng triệu người ở Nga; đập tan ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản và chế độ phong kiến.
Cách mạng tháng Mười Nga đã mở đầu lịch sử thế giới hiện đại, làm thay đổi cục diện chính trị thế giới. Và dẫn đến sự xuất hiện nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới, tạo ra chế độ xã hội đối lập với chế độ tư bản chủ nghĩa.
Cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra trước mắt các dân tộc bị áp bức “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, Chủ nghĩa Mác – Lênin đã trở thành hiện thực và được truyền bá rộng rãi khắp nơi, dẫn đến sự ra đời của nhiều đảng cộng sản trên thế giới ở các nước tư bản và các nước thuộc địa.
+Cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã tác động như thế nào đối với cách mạng Việt Nam:
Trước hết, đó là nguồn cổ vũ và động viên tinh thần cho nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc.
Hai là, Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã đưa chủ nghĩa Mác – Lênin thành thực tế và truyền bá khắp nơi dẫn đến việc Nguyễn Ái Quốc bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam – con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người đã tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam – Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố quyết định hàng đầu mọi thắng lợi của cách mạng về sau.
Ba là, cuộc cách mạng này đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho nhân dân Việt Nam tiếp thu và sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh đất nước.
Câu 2. (3,0 điểm)
Trình bày những biến đổi to lớn về chính trị của thế giới từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000. Trong những biến đổi đó, biến đổi nào tác động lớn nhất đến sự thay đổi bản đồ chính trị thế giới? Vì sao?
Những biến đổi to lớn về chính trị của thế giới từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000:
Với thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước và trở thành hệ thống thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Việt Nam (1945), Cách mạng Trung Quốc (1949), Cách mạng Cuba (1959) đã mở ra không gian địa lí của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa – một dải đất rộng lớn trải dài từ phía Đông Châu Á qua Liên bang Xô Viết tới phần phía Đông Châu Âu và lan sang vùng biển Caribe của khu vực Mĩ Latinh. Trong nhiều thập niên, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã trở thành một lực lượng hùng hậu về chính trị - quân sự và kinh tế, chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao của khoa học kĩ thuật thế giới. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân, đến năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa về cơ bản đã tan rã nhưng đó chỉ là bước sụt lùi tạm thời của một hệ thống chưa khoa học chưa đúng với Học thuyết Mác – Lênin.
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, một cao trào giải phóng dân tộc đã dây lên mạnh mẽ ở các nước Á, Phi, Mỹ Latinh. Hệ thống thuộc địa và chế độ phân biệt chủng tộc (Apacthai) kéo dài từ nhiều thế kỷ đã bị sụp đổ hoàn toàn. Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đó đã đưa đến sự ra đời của hơn 100 quốc gia độc lập trẻ tuổi. Bản đồ chính trị thế giới có những thay đổi to lớn và sâu sắc. Các quốc gia này bắt tay vào công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội và ngày càng tham gia nhiều vào đời sống chính trị thế giới. Tuy đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc xây dựng đất nước, song bản đồ chính trị các nước Á, Phi, Mỹ Latinh vẫn còn không ít mảng ảm đạm với các cuộc xung đột, chia rẽ kéo dài và những cải cách kinh tế - xã hội chưa mấy thành công.
Trong nửa sau thế kỷ XX, hệ thống đế quốc chủ nghĩa đã có nhiều chuyển biến quan trọng: Thứ nhất, Mỹ vươn lên trở thành đế quốc giàu mạnh nhất, đứng đầu khối các nước tư bản chủ nghĩa, chính quyền Mỹ đã thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm thống trị thế giới song đã gặp không ít thất bại; Thứ hai, nhờ điều chỉnh kịp thời, nên kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa tăng trưởng khá liên tục, đưa đến những thay đổi về cơ cấu cũng như xu hướng phát triển và hình thành các trung tâm kinh tế lớn của thế giới; Thứ ba, các nước tư bản ngày càng có xu hướng liên kết khu vực, mà tiêu biểu là sự ra đời của tổ chức Liên minh châu Âu (EU). Mỹ, EU và Nhật Bản đã trở thành ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một trật tự thế giới mới đã được thiết lập. Đó là trật tự hai cực Ianta sau do Mỹ và Liên Xô đứng đầu mỗi cực, với đặc trưng là thế giới bị chia thành hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng hai cực – hai phe đó là nhân tố hàng đầu nền chính trị thế giới và quan hệ quốc tế trong phần lớn nửa sau thế kỷ XX. Tình trạng đối đầu giữa hai siêu cường, hai phe đã dẫn đến Chiến tranh lạnh kéo dài hơn bốn thập kỷ. Từ cuối thập niên 80 đầu thập niên 90, Chiến tranh lạnh kết thúc kéo theo sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta, thế giới chuyển dần sang xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển.


Trong những biến đổi đó, thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh tác động lớn nhất đến sự thay đổi bản đồ chính trị thế giới. Vì:
+Thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc đã xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, làm cho hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phân biệt chủng tộc kéo dài nhiều thế kỉ sụp đổ hoàn toàn và đồng thời góp phần vào thắng lợi của phe đồng minh trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít.
+Thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc dẫn đến sự ra đời của hơn 100 quốc gia có độc lập, chủ quyền, tự mình ghi tên vào bản đồ thế giới một quốc gia có chủ quyền, có độc lập, xóa bỏ quan hệ lệ thuộc của thuộc địa với “chính quốc”, thiết lập quan hệ bình đẳng.
+Các quốc gia ngày càng tích cực tham gia và có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới với ý chí chống chủ nghĩa thực dân, vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
+Thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc đã góp phần vào quá trình “xói mòn” và tan rã của trật tự “hai cực Ianta” được thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai và sự thiết lập quan hệ quốc tế mới, gắn liền với sự hình thành và mở rộng các tổ chức liên kết khu vực và các diễn đàn hợp tác quốc tế.
Câu 3. (4,0 điểm)
Phong trào công nhân Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930 phát triển như thế nào? Nêu vai trò của phong trào công nhân Việt Nam đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong Cuộc trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp với số lượng khoảng 10 vạn người. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam tăng nhanh về số lượng, đến năm 1929 có 22 vạn người, đông nhất là công nhân mỏ  và đồn điền. Công nhân Việt Nam sớm tiếp thu truyền thống của dân tộc, nhất là truyền thống chống giặc ngoại xâm; bị thực dân, phong kiến, tư sản bóc lột nên có tinh thần đấu tranh kiên quyết chống đế quốc và tay sai rất cao.
Giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và trào lưu cách mạng vô sản được truyền bá vào Việt Nam, giai cấp công nhân trở thành động lực mạnh mẽ theo cách mang tiên tiến của thời đại. Những năm sau chiến tranh, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân tuy còn lẻ tẻ và tự phát nhưng đã nói lên ý thức giai cấp đang phát triển nhanh chóng, làm cơ sở cho các tổ chức và phong trào chính trị cao hơn về sau. Năm 1920, Công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn đã thành lập Công hội (bí mật) do Tôn Đức Thắng đừng đầu.
Các cuộc đấu tranh của công nhân và thủy thủ Pháp trên các tàu Pháp ghé vào Hải Phòng (1919), Sài Gòn (1920) và các cuộc đấu tranh của công nhân và thủy thủ Trung Quốc ở các cảng lớn  Hương Cảng, Áo Môn, Thượng Hải (1921) đã góp phần cổ vũ, động viên công nhân Việt Nam hăng hái đấu tranh.
Từ năm 1919 đến năm 1925, có 25 cuộc đấu tranh, tiêu biểu. Năm 1922, công nhân và viên chức các cơ sở công thương của tư nhân ở Bắc Kì đòi chủ tư bản Pháp phải cho họ nghỉ ngày chủ nhật có trả lương. Cũng năm này, còn có các cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương… Tháng 8/1925, thợ máy xương Ba Son tại cảng Sài Gòn không chịu sửa chửa chiến hạm Misơlê của Pháp trước khi chiến hạm này trở lính sang tham gian đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc. Cuộc bãi công nổ ra với yêu sách đòi tăng lương 20% và phải cho những công nhân mất việc làm  được trở lại làm việc. Sau 8 ngày bãi công, nhà chức trách Pháp phải chấp nhận tăng lượng 10% cho công nhân. Cuộc bãi công Ba Son thắng lợi, đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam.
Thông qua những hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, đặc biệt là việc thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh. Trong hai năm 1926 – 1927 nổ ra 18 cuộc bãi công, sôi nổi nhất là phong trào công nhân đồn điền.
Trong hai năm 1928 – 1929, có khoảng 40 cuộc bãi công của công nhân nổ ra từ Bắc chí Nam, nhất là ở các trung tâm kinh tế, chính trị, sôi nổi nhất là ở Bắc Kì. Trong phong trào có sự liên kết đấu tranh của công nhân giữa các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ; những khẩu hiệu chính trị được kết hợp với các khẩu hiệu kinh tế.
Về tổ chức, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Công đoàn có cơ sở ở khắp nơi trong nước  và trực tiếp ảnh hưởng tới phong trào công nhân. So với giai đoạn 1919- 1925, phong trào công nhân 1926 – 1929 có bước phát triển mới. Ý thức giai cấp và ý thức chính trị ngày càng rõ rệt. Giai cấp công nhân Việt Nam đã bước đầu đi vào con đường đấu tranh có tổ chức và trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đang chuyển biến mạnh mẽ từ tự phát đến tự giác, có sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung, làm cho phong trào yêu nước chuyển mạnh theo khuynh hướng vô sản.
Cùng với phong trào yêu nước kết thành một làm song cách mạng dân tộc dân chủ vô cùng mạnh mẽ đặt ra yêu cầu bức thiết phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản. Yêu cầu đó tác động đến các tổ chức tiền cộng sản (Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt Cách mạng đảng), dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hóa tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam (Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn), rồi thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Phong trào công nhân Việt Nam có vai trò to lớn đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trước hết, Phong trào công nhân là cơ sở để tiếp thu sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin, lí luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Từ đó mà giai cấp công nhân từ đấu tranh tự mình đến đấu tranh cho mình.
Thứ hai, Đến cuối năm 1929, phong trào công nhân Việt Nam có ảnh hưởng rộng lớn trong toàn quốc và giai cấp công nhân thực sự trở thành một lực lượng chính trị độc lập, có sức hút các lực lượng xã hội khác. Phong trào công nhân có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước phát triển theo khuynh hướng vô sản.
 Thứ ba, Phong trào công nhân cùng với phong trào yêu nước kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ rộng lớn mãnh mẽ, đòi hỏi cần có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của  nhân dân Việt Nam trong những năm 20 của thế kỉ XX. Như vậy, phong trào công nhân là một nhân tố để hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 4. (4,0 điểm)
Trước và sau ngày 6/3/1946, sách lược của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thực dân Pháp và Trung Hoa Dân quốc có gì khác nhau? Vì sao có sự khác nhau đó? Từ thành công của sách lược ngoại giao trong giai đoạn 1945-1946, em hãy rút ra bài học cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
Trước và sau ngày 6/3/1946, sách lược của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thực dân Pháp và Trung Hoa Dân quốc khác nhau:
+Trước ngày 6/3/1946: Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sách lược: Hòa hoãn với Trung Hoa Dân quốc ở miền Bắc; kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam.
+Sau ngày 6/3/1946: Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sách lược: Hòa hoãn với Pháp và Trung Hoa Dân quốc.
Sở dĩ có sự khác nhau đó là vì hoàn cảnh lịch sử thay đổi.
+Trước ngày 28/2/1946, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng trước nhiều kẻ thù xâm lược đông và mạnh trong khi đất nước đứng trước tình thế hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”, trong đó Pháp là kẻ thù chính và phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Trong khi đó, Trung Hoa Dân quốc có những mâu thuẫn nội tại mà Đảng và Chính phủ có thể lợi dụng. Trong điều kiện đó, Đảng và Chính phủ đã chủ trương hòa với Trung Hoa Dân quốc, kháng chiến chống Pháp.
+Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Hoa – Pháp đã làm cho tình hình thay đổi. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trước một trong hai con đường lựa chọn: hoặc là đánh Pháp không cho quân Pháp ra miền Bắc hoặc là hòa với Pháp cho Pháp ra miền Bắc, gạt 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc về nước. Trước tình hình đó, ngày 3/3/1946, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương “Hòa để tiến”. Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí với G. Xanhtơni (đại diện Chính phủ Pháp) kí Hiệp định Sơ bộ.
Từ thành công của sách lược ngoại giao trong giai đoạn 1945-1946, em hãy rút ra bài học cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, phải nhận định chính xác về kẻ thù, “biết địch biết ta trăm trận
trăm thắng”. Ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh thời kì năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám đã tỏ rõ Người am tường “năm cái biết”- “ngũ tri” được phương Đông đúc kết: biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến.
Thứ hai, sử dụng những phương pháp ngoại giao khôn khéo. “Dĩ bất biến,
ứng vạn biến
” - lấy cái không thể thay đổi để ứng phó với muôn sự thay đổi – là một phương pháp bắt nguồn từ triết lý phương Đông, được Hồ Chí Minh vận dụng hiệu quả trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc thời kì 1945-1946. Sách lược “hòa để tiến” với thực  dân Pháp cũng chính thể hiện sự cương - nhu trong đối ngoại của Hồ Chủ tịch.
Thứ ba, biết dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, đoàn kết nhân dân, không phân biệt thành phần giai cấp, dân tộc, đảng phái, tôn giáo. Chính sau này, Hồ Chủ Tịch đã chỉ rõ “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Thứ tư, cần hết sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước trên thế giới, các lực lượng hòa bình và dân chủ vì những mục tiêu chung của thời đại. Nói cách khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy một trong những phương pháp đặc sắc của ngoại giao truyền thống Việt Nam- ngoại giao tâm công (đánh vào lòng người).
Câu 5. (3,0 điểm)
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1954-1954), thắng lợi nào của quân dân ta đã đưa cuộc kháng chiến bước sang một giai đoạn mới? Nêu hoàn cảnh lịch sử và ý nghĩa của thắng lợi đó.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1954-1954), thắng lợi của Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 của quân dân ta đã đưa cuộc kháng chiến bước sang một giai đoạn mới.
Sau gần một năm kể từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thực dân Pháp tuy chiếm được các đô thị và các đường giao thông chiến lược song phạm vi chiếm đóng ngày càng rộng, Pháp càng gặp khó khăn do phải dàn mỏng lực lượng. Bước sang năm 1947, nước Pháp gặp nhiều khó khăn về kinh tế - tài chính, chính trị - xã hội. Để giải quyết những khó khăn đó và thực hiện âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh”, tháng 3/1947, Chính phủ Pháp cử Bôlae sang làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thay cho Đắcgiăngiơ. Bôlae vạch ra kế hoạch tiến công lên Việt Bắc, nhằm đánh phá căn cứ địa, tiêu diệt cơ quan đầu não cuộc kháng chiến và quân chủ lực, tiến tới thành lập thành lập chính phủ bù nhìn toàn quốc và nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Thực hiện âm mưu trên, Pháp đã huy động một lực lượng quân đội lớn với 12.000 quân tinh nhuệ gồm cả không quân, lục quân, thủy quân và hầu hết máy bay có ở Đông Dương, chia thành ba cánh quân mở đường tấn công lên Việt Bắc: 1- Quân nhảy dù đổ xuống một số vị trí nằm ở giữa lòng Việt Bắc (Chợ Đồn, Chợ Mới, Bắc Kạn,..); 2- Quân bộ đi theo đường số 4 tiến từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, rồi vòng xuống theo quốc lộ số 3 hợp điểm với cánh quân dù đang  có mặt ở Bắc Kạn; 3- Quân thủy đi theo đường Sông Hồng, sông Lô đánh lên Tuyên Quang, Chiêm Hóa. Hai cánh quân của địch hình thành hai giọng kiềm xiết chặt căn cứ địa Việt Bắc và chúng dự kiến hai giọng kiềm này sẽ khép lại ở Đài Thị.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng chỉ thị “Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp” (15/10/1947). Thực hiện chỉ thị của Đảng, trên khắp các mặt trận, nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu tiêu diệt nhiều sinh lực địch, từng bước phá vỡ vòng vây của địch ở nhiều nơi. Cuộc chiến đấu hơn hai tháng giữa ta và địch đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp khỏi Việt Bắc ngày 19/12/1947. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn. Bộ đội chủ lực của ta đã trưởng thành.
Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 là chiến dịch phản công lớn đầu tiên của ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi. Chiến thắng Việt Bắc chứng minh sự đúng đắn của đường lối kháng chiến của Đảng ta, chứng minh khả năng vững chắc của căn cứ địa Việt Bắc.
Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 đã giáng đòn quyết định vào chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang một giai đoạn mới. Là mốc khởi đầu thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch có lợi cho cuộc kháng chiến của ta.
Câu 6. (3,0 điểm)
“Đánh cho để tóc dài
Đánh cho để đen răng…”
(Trích Hịch Vua Quang Trung)
a. Cho biết hai câu trên đề cập vấn đề gì?
b. Chọn một thời kì lịch sử của dân tộc để phân tích và làm rõ ý nghĩa quan trọng của vấn đề đó trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta.
c. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, theo em vấn đề đó cần được phát huy như thế nào?
a. Cho biết hai câu trên đề cập vấn đề gì?
Vấn đề giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
b. Chọn một thời kì lịch sử của dân tộc để phân tích và làm rõ ý nghĩa quan trọng của vấn đề đó trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta.
+Thời kì nghìn năm Bắc thuộc (179 TCN – 938) là một thời kì nhân dân Văn Lang – Âu Lạc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
+Trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc, các triều đại phong kiến phương Bắc không những áp bức bóc lột nhân dân ta dã man mà còn thực hiện chính sách “đồng hóa” dân tộc ta như truyền bá Nho giáo vào nước ta, bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục tập quán theo người Hán, mở lớp đào tạo chữ Nho… Nhưng trong một nghìn năm đó, người Việt vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc của mình: nhân dân ta vẫn giữ được lối sống, phong tục tập quán, tiếng nói riêng của dân tộc.
+Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, không chịu khuất phục trước mọi kẻ thù xâm lược, chủ động và sáng tạo trong việc lưu giữ và phát triển nền văn hóa dân tộc và chống “đồng hóa” của kẻ thù. Người Việt đã tiếp thu có chọn lọc những ảnh hưởng của văn hóa bên ngoài và “Việt hóa” nó cho phù hợp, thích nghi với điều kiện sống, đặc điểm xã hội và tâm lí của người Việt làm cho nền văn hóa đa dạng và phong phú: thông qua tư tưởng Nho giáo dạy cho con người các đặc tín tốt của con người; tư tưởng Phật giáo dạy con người lòng từ bi, làm nhiều việc thiện. Cũng nhờ sự sáng tạo trong lao động và điều kiện sống mà về sau từ chữ Hán mà nhân dân ta đã tạo ra chữ viết riêng cho dân tộc mình – chữ Nôm với những tác phẩm của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông…
c. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, theo em vấn đề đó cần được phát huy như thế nào?
+Mỗi thanh niên, thiếu niên phải thực sự thấy được giá trị của văn hóa dân tộc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, mà còn tinh thông văn hóa, tham gia giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, không phải là khư khư ôm lấy cái đã có mà cần phải kế thừa phát huy cũng đồng thời phát triển lên bằng cách tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa mới tích cực.
+Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là đóng góp có ý nghĩa đầu tiên cho đất nước mà mỗi thanh thiếu niên có thể làm và bắt đầu từ ra sức học tập, rèn luyện nâng cao tinh thần yêu nước, tự tôn, tự hòa dân tộc, không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, ra sức học tập và rèn luyện đạo đức, bản lĩnh chính trị, cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Huỳnh Thanh Mộng

Nhận xét