ĐÁP ÁN THAM KHẢO
Câu 1
Trong các thế kỷ X – XV, cùng với sự nghiệp
chính trị, quân sự và phát triển kinh tế, nhân dân Việt Nam đã từng bước xây dựng
cho mình một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc.
Về tư tưởng, tôn giáo, đó là tư tưởng của Nho
giáo, Phật giáo và Đạo giáo được du nhập từ Trung Quốc. Trong các thế kỷ X-XIV,
Phật giáo giữ vai trò đặc biệt quan trọng, đến thời Lê sơ Nho giáo thì Nho giáo
được đưa lên vị trí độc tôn.
Về giáo dục, nền giáo dục Nho học từng bước
được hoàn thiện và phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan chức và người tài
cho đất nước. Nhà nước phong kiến đã có những chính sách phát triển giáo dục
như lập Văn Miếu năm 1070, tổ chức các kỳ thi, dựng bia ghi tên tiến sĩ…
Về văn học, đã để lại nhiều tác phẩm thơ văn
nổi tiếng, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm thể hiện niềm tự hào dân tộc và yêu nước
sâu sắc như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Ức Trai thi tập, Hồng Đức quốc âm
thi tập…
Nghệ thuật phát triển phong phú và đa dạng bao
gồm kiến trúc, điêu khắc, hội họa, sân khấu chèo, tuồng, múa rối nước, ca múa,
lễ hội đua thuyền, đấu vật…
Khoa học – kỹ thuật cũng đạt được nhiều thành
tựu quan trọng trong lĩnh vực sử học (Đại Việt sử ký, Đại Việt sử ký toàn thư),
địa lý (Dư địa chí, Hồng Đức bản đồ) nghiên cứ quân sự (Binh thư yếu lược),
nghiên cứu chính trị (Thiên Nam dư hạ), toán học (Đại thành toán pháp). Kỹ thuật
xây thành, đóng tàu, đúc súng cũng phát triển mạnh dưới thời nhà Hồ.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
hiện nay cần kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc, truyền thống hiếu học,
trọng dụng hiền tài, các giá trị nghệ thuật truyền thống dân tộc, các giá trị
khoa học – kỹ thuật của cha ông đồng thới phát huy chúng lên một tầm cao mới để
xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Câu 2.
Từ khi thành lập đến nay ASEAN luôn coi trọng
vấn đề về an ninh chính trị là vì những lý do sau:
Thứ nhất, các nước ASEAN nằm ở khu vực Đông
Nam Á là nơi có vị trí chiến lược quan trọng, giàu tài nguyên nên sớm trở thành
nơi nhòm ngó và tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn. Trong thời kỳ Chiến
tranh lạnh, các nước lớn đã dựa vào sức mạnh quân sự của mình để can thiệp vào
công việc nội bộ của các nước Đông Nam Á (như ở các nước Đông Dương), dẫn đến bất
ổn về an ninh chính trị ở đây. Từ đó, kéo theo tình trạng chạy đua vũ trang,
chiến tranh cục bộ mà nạn nhân chính là các nước Đông Nam Á.
Thứ hai, sự khác biệt về lịch sử hình thành
và phát triển nên các quốc gia ASEAN có sự khác biệt về thể chế chính trị (Việt
Nam theo thể chế cộng hòa dân chủ nhân dân, Campuchia, Thái Lan theo chế độ
quân chủ lập hiến, Xingapo theo thể chế cộng hòa đại nghị). Do đó quan điểm
chính trị về các vấn đề trong và ngoài khu vực của mỗi nước hoàn toàn không giống
nhau, đôi khi xảy ra bất đồng. Đây là một trong những nguyên nhân cản trở quá
trình hợp tác và phát triển của các nước ASEAN.
Do đó, ngay từ khi thành lập ASEAN đã hướng tới
mục tiêu chung là giữ vững an ninh chính trị nhằm duy trì hòa bình và ổn định
trong khu vực. Đồng thời, Hiệp định Bali 1976 đã xác định những nguyên tắc cơ bản
trong quan hệ giữa các nước ASEAN là tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ;
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa
vũ lực đối với nhau; giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.
Với vai trò là thành viên của ASEAN Việt Nam
luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong việc giữ gìn hòa bình, an
ninh chính trị khu vực, giải quyết tranh chấp trong khu vực bằng biện pháp hòa
bình. Việt Nam cũng góp phần tiến tới xây dựng một cộng đồng ASEAN về mặt chính
trị, góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á ngày càng phát triển.
Câu 3.
Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân
Việt Nam từ năm 1885 đến năm 1930 diễn ra liên tục, mạnh mẽ, thể hiện ý chí
kiên cường và bất khuất của nhân dân ta.
Trước hết là phong trào yêu nước theo hệ tư
tưởng phong kiến diễn ra từ năm 1885 đến cuối thế kỷ XIX, tiêu biểu là phong
trào Cần vương dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước, trong đó mạnh mẽ nhất
là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Bên cạnh đó còn có cuộc
khởi nghĩa nông dân ở Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo.
Bước sang đầu thế kỷ XX, khi ngọn cờ phong kiến
đã lỗi thời, các sĩ phu yêu nước tiến bộ Việt Nam đã đón nhận trào lưu tư tưởng
dân chủ tư sản từ nước và phát động thành một phong trào yêu nước và cách mạng
rộng lớn với hai khuynh hướng đấu tranh là bạo động của Phan Bội Châu và duy
tân của Phan Châu Trinh.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, mâu thuẫn
xã hội Việt Nam ngày càng trở nên gay gắt, phong trào dân tộc dân chủ diễn ra mạnh
mẽ với sự tham của các tầng lớn nhân dân. Tiêu biểu là phong trào đấu tranh của
giai cấp tư sản dân tộc theo xu hướng cải lương, thành lập Đảng lập hiến. Các
cuộc đấu tranh đòi dân chủ, tự do của giai cấp tiểu tư sản ở thành thị. Phong
trào công nhân cũng có bước phát triển mới, chuyển từ đấu tranh tự phát sang tự
giác với cuộc bãi công ở Ba Son năm 1925.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp nhận
chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt Nam
và truyền bá con đường đó vào nước ta, làm phong trào yêu nước và cách mạng Việt
Nam chuyển dần sang khuynh hướng vô sản. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và
Tân việt cách mạng đảng là những tổ chức cách mạng lãnh đạo phong trào vô sản ở
nước ta từ năm 1925. Đến cuối năm 1929, hai tổ chức này đã phát triển thành 3 tổ
chức cộng sản là Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng và Đông Dương cộng
sản liên đoàn.
Phong trào đấu tranh theo khuynh hướng tư sản
vẫn tiếp diễn dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng, song cuối cùng đã bại
sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái vào tháng 2/1930.
Cùng thời điểm đó, ba tổ chức cộng sản đã hợp
nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử
cách mạng Việt Nam.
Như vậy, phong trào yêu nước chống Pháp từ
năm 1885 đến năm 1930 diễn ra theo 3 khuynh hướng phong kiến, tư sản và vô sản.
Do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là đường lối đấu tranh chưa đúng đắn nên các
phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản lần lượt thất bại,
chỉ có phong trào theo khuynh hướng vô sản là tiếp tục phát triển và giành được
quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1930. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc và tiến hành
xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến ngày hôm nay.
Câu
4.
Ngày
1-9-1939, phátxít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến với
Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức lần lượt chiếm các nước
châu Âu. Đế quốc Pháp lao vào vòng chiến. Chính phủ Pháp đã thi hành biện pháp
đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt
trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Tháng
6- 1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22-6-1941, quân
phátxít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi Phátxít Đức xâm lược Liên Xô, tính chất
chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên
Xô làm trụ cột với các lực lượng phátxít do Đức cầm đầu.
Chiến
tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông Dương và Việt
Nam. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng
sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra
ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản
của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập
đông người.
Trong
thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính sách thời
chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp
phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản
Đông Dương. Hàng nshìn cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền
tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố
lệnh tổng động viện, thực hiện chính sách "kinh tế chỉ huy"
nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc.
Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn.
Lợi
dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phát xít Nhật đã tiến vào Lạng sơn và đổ
bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật.
Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật.
Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc, phátxít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn
bao giờ hết.
Kể
từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
họp Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng 11-1940)
và Hội nghị lần thứ tám (tháng 5-1941). Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến
của Chiến tranh thế giới thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể trong nước, Ban
Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một
là, đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Ban chấp hành Trung ương
nêu rõ máu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu
thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phátxít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
lại được”.
Để
tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương
quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân
cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và
giảm tô, giảm tức"...
Hai
là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực lượng cách
mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc. Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo
trong cả nước, Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam
độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu
quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu
quốc, Thiếu niên cứu quốc…) để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không
phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống
nòi.
Ba
là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang lả nhiệm vụ trung tâm của
Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ
trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm
lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách
mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ: Việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm
vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại". Trung ươg
quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội
đu kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch,
bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ,
lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
Ban
Chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta:
"Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận
tiện hơn cả mà đánh lại quân thù... với lực lượng sằn có, ta có thể lãnh đạo
một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể dành thắng lợi
mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Ban
Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng
cao lực lượng tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào
tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và
đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
Với
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng lạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh
sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách
mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đứng đắn để thực hiện mục
tiêu ấy.
Câu 5.
Hiệp định Pari về chấm chứt chiến tranh, lập
lại hòa bình tại Việt Nam được ký kết vào ngày 27/1/1973 gồm những nội dung cơ
bản sau:
Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Hai bên ngừng bắn ở miền Nam, Hoa Kì cam kết
chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam.
Hoa Kì rút hết quân đội của mình và quân các
nước đồng minh, hủy bỏ các căn cứ quân sự, cam kết không tiếp tục dính líu quân
sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định
tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp
của nước ngoài.
Các bên thừa nhận thực tế miền Nam Việt Nam
có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
Hai bên trao trả tù binh và dân thường bị bắt.
Hoa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết
thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, thiết lập quan hệ bình thường cùng
có lợi với Việt Nam.
Với hiệp định Pari, ta đã buộc Mỹ phải công
nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ. Đây là bước thắng lợi lớn của nhân dân ta so với Hiệp định
Giơnevơ 1954: Mỹ phải rút quân ngay về nước mà không phải đợi đến 2 năm tập kết
và phân chia đất nước, nhân dân miền Nam Việt Nam được quyền tự quyết định
tương lai chính trị thông qua tổng tuyển cử tự do, không phải mất 2 năm và chịu
sự giám sát của ủy ban quốc tế. Chúng ta đã thành công trong việc “đánh cho Mỹ
cút” tạo điều kiện thuận lợi để “đánh cho Ngụy nhào” năm 1975 giải phóng hoàn
toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Câu 6.
Sau Hiệp định Giơnevơ, đế
quốc Mỹ tìm mọi cách thay thế thực dân Pháp ở miền Nam với âm mưu từng bước
biến miền Nam thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới ở Đông Nam Á. Âm mưu đó
được tiến hành bằng cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài trong suốt 5 đời tổng
thống Mỹ.
Chiến tranh xâm lược Việt
Nam là một bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế
quốc Mỹ, chống chủ nghĩa xã hội và phong trào giải phóng dân tộc, nhằm tăng
cường vị trí sen đầm quốc tế của Mỹ trên trường quốc tế. Đất nước ta trở thành
nơi thử thách sức mạnh và uy tín của đế quốc Mỹ, là nơi diễn ra cuộc đụng đầu
lịch sử to lớn.
Nhưng nhân dân Việt Nam đã
chiến đấu anh dũng và giành thắng lợi vẻ vang, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari
1973 rút khỏi nước ta và giải phóng hoàn toàn miền Nam mùa xuân 1975, thống
nhất đất nước.
Thắng lợi của nhân dân ta
đã làm nội bộ nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, các tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi thì bị ám
sát, Nich-xơn thì buộc phải từ chức, phong trào phản chiến của người dân Mỹ
diễn ra mạnh mẽ. Uy tín của Mỹ trên trường quốc tế bị suy giảm nghiêm trọng.
Sau khi thất bại của Mỹ ở Việt Nam, khối SEATO (Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á)
cũng giải thể, tạo ra xu thế hòa dịu, đối thoại trong quan hệ quốc tế ở khu vực
Đông Nam Á và trên thế giới.
Thắng lợi của nhân dân ta
đã tạo điều kiện cho Lào và Campuchia cùng được giải phóng vào năm 1975. Đồng
thời, cỗ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mỹ Latinh.
Do đó có thể thấy, nhận
định “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là một sự kiện có ý
nghĩa quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc” của Đảng ta là hoàn toàn
đúng đắn.
Điều đó chứng tỏ con đường cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái
Quốc – Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho dân tộc
Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 7.
Hiến chương thành lập của Liên hợp quốc năm
1945 nêu rõ mục đích của tổ chức này là duy trì hòa bình và an ninh thế giới,
phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc
tế giữa các nước. Xuất phát từ cơ sở đó Liên hợp quốc đã đưa ra nguyên tắc giải
quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Các quốc gia có nghĩa
vụ phải giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình thông qua các biện pháp phi
vũ lực.
Việt Nam đã vận dụng nguyên tắc này trong việc
giải quyết tranh chấp ở Biển Đông hiện nay như sau:
Thứ nhất, tuyên bố lập trường nhất quán của Việt Nam về vấn đề Biển Đông đó là mọi tranh chấp
được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trong đó
có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử
của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002.
Thứ hai, đưa ra đầy đủ bằng chứng lịch sử và
cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, từ đó khẳng định mọi hành vi của quốc gia khác tại hai quần đảo này
mà không được sự cho phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị.
Thứ ba, không làm tình hình trở nên căng thẳng,
không mở rộng phạm vi tranh chấp, tiền hành đàm phán với Trung Quốc nhằm tìm kiếm
một biện pháp tốt nhất cho việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông.
OdianoMki_no Anish Ruth https://wakelet.com/wake/x6rWShPpfh7E-7VDFYgCx
Trả lờiXóasormaranfall
piniraseNewark Darrel Hamer FixMeStick
Trả lờiXóaMicrosoft Office
VMware Workstation
riatincticte