ĐÁP ÁN ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA MÔN LỊCH SỬ NĂM 2016

ĐÁP ÁN THAM KHẢO



Câu 1
Trong các thế kỷ X – XV, cùng với sự nghiệp chính trị, quân sự và phát triển kinh tế, nhân dân Việt Nam đã từng bước xây dựng cho mình một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc.
Về tư tưởng, tôn giáo, đó là tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo được du nhập từ Trung Quốc. Trong các thế kỷ X-XIV, Phật giáo giữ vai trò đặc biệt quan trọng, đến thời Lê sơ Nho giáo thì Nho giáo được đưa lên vị trí độc tôn.
Về giáo dục, nền giáo dục Nho học từng bước được hoàn thiện và phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan chức và người tài cho đất nước. Nhà nước phong kiến đã có những chính sách phát triển giáo dục như lập Văn Miếu năm 1070, tổ chức các kỳ thi, dựng bia ghi tên tiến sĩ…
Về văn học, đã để lại nhiều tác phẩm thơ văn nổi tiếng, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm thể hiện niềm tự hào dân tộc và yêu nước sâu sắc như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Ức Trai thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập…
Nghệ thuật phát triển phong phú và đa dạng bao gồm kiến trúc, điêu khắc, hội họa, sân khấu chèo, tuồng, múa rối nước, ca múa, lễ hội đua thuyền, đấu vật…
Khoa học – kỹ thuật cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực sử học (Đại Việt sử ký, Đại Việt sử ký toàn thư), địa lý (Dư địa chí, Hồng Đức bản đồ) nghiên cứ quân sự (Binh thư yếu lược), nghiên cứu chính trị (Thiên Nam dư hạ), toán học (Đại thành toán pháp). Kỹ thuật xây thành, đóng tàu, đúc súng cũng phát triển mạnh dưới thời nhà Hồ.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay cần kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc, truyền thống hiếu học, trọng dụng hiền tài, các giá trị nghệ thuật truyền thống dân tộc, các giá trị khoa học – kỹ thuật của cha ông đồng thới phát huy chúng lên một tầm cao mới để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Câu 2.
Từ khi thành lập đến nay ASEAN luôn coi trọng vấn đề về an ninh chính trị là vì những lý do sau:
Thứ nhất, các nước ASEAN nằm ở khu vực Đông Nam Á là nơi có vị trí chiến lược quan trọng, giàu tài nguyên nên sớm trở thành nơi nhòm ngó và tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, các nước lớn đã dựa vào sức mạnh quân sự của mình để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước Đông Nam Á (như ở các nước Đông Dương), dẫn đến bất ổn về an ninh chính trị ở đây. Từ đó, kéo theo tình trạng chạy đua vũ trang, chiến tranh cục bộ mà nạn nhân chính là các nước Đông Nam Á.
Thứ hai, sự khác biệt về lịch sử hình thành và phát triển nên các quốc gia ASEAN có sự khác biệt về thể chế chính trị (Việt Nam theo thể chế cộng hòa dân chủ nhân dân, Campuchia, Thái Lan theo chế độ quân chủ lập hiến, Xingapo theo thể chế cộng hòa đại nghị). Do đó quan điểm chính trị về các vấn đề trong và ngoài khu vực của mỗi nước hoàn toàn không giống nhau, đôi khi xảy ra bất đồng. Đây là một trong những nguyên nhân cản trở quá trình hợp tác và phát triển của các nước ASEAN.
Do đó, ngay từ khi thành lập ASEAN đã hướng tới mục tiêu chung là giữ vững an ninh chính trị nhằm duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực. Đồng thời, Hiệp định Bali 1976 đã xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước ASEAN là tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực đối với nhau; giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.
Với vai trò là thành viên của ASEAN Việt Nam luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong việc giữ gìn hòa bình, an ninh chính trị khu vực, giải quyết tranh chấp trong khu vực bằng biện pháp hòa bình. Việt Nam cũng góp phần tiến tới xây dựng một cộng đồng ASEAN về mặt chính trị, góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á ngày càng phát triển.
Câu 3.
Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam từ năm 1885 đến năm 1930 diễn ra liên tục, mạnh mẽ, thể hiện ý chí kiên cường và bất khuất của nhân dân ta.
Trước hết là phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến diễn ra từ năm 1885 đến cuối thế kỷ XIX, tiêu biểu là phong trào Cần vương dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước, trong đó mạnh mẽ nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Bên cạnh đó còn có cuộc khởi nghĩa nông dân ở Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo.
Bước sang đầu thế kỷ XX, khi ngọn cờ phong kiến đã lỗi thời, các sĩ phu yêu nước tiến bộ Việt Nam đã đón nhận trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản từ nước và phát động thành một phong trào yêu nước và cách mạng rộng lớn với hai khuynh hướng đấu tranh là bạo động của Phan Bội Châu và duy tân của Phan Châu Trinh.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, mâu thuẫn xã hội Việt Nam ngày càng trở nên gay gắt, phong trào dân tộc dân chủ diễn ra mạnh mẽ với sự tham của các tầng lớn nhân dân. Tiêu biểu là phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản dân tộc theo xu hướng cải lương, thành lập Đảng lập hiến. Các cuộc đấu tranh đòi dân chủ, tự do của giai cấp tiểu tư sản ở thành thị. Phong trào công nhân cũng có bước phát triển mới, chuyển từ đấu tranh tự phát sang tự giác với cuộc bãi công ở Ba Son năm 1925.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt Nam và truyền bá con đường đó vào nước ta, làm phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam chuyển dần sang khuynh hướng vô sản. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân việt cách mạng đảng là những tổ chức cách mạng lãnh đạo phong trào vô sản ở nước ta từ năm 1925. Đến cuối năm 1929, hai tổ chức này đã phát triển thành 3 tổ chức cộng sản là Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Phong trào đấu tranh theo khuynh hướng tư sản vẫn tiếp diễn dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng, song cuối cùng đã bại sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái vào tháng 2/1930.
Cùng thời điểm đó, ba tổ chức cộng sản đã hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Như vậy, phong trào yêu nước chống Pháp từ năm 1885 đến năm 1930 diễn ra theo 3 khuynh hướng phong kiến, tư sản và vô sản. Do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là đường lối đấu tranh chưa đúng đắn nên các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản lần lượt thất bại, chỉ có phong trào theo khuynh hướng vô sản là tiếp tục phát triển và giành được quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến ngày hôm nay.
Câu 4.
Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Đế quốc Pháp lao vào vòng chiến. Chính phủ Pháp đã thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Tháng 6- 1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22-6-1941, quân phátxít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi Phátxít Đức xâm lược Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phátxít do Đức cầm đầu.
Chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.
Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nshìn cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh  tổng động viện, thực hiện chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn.
Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phát xít Nhật đã tiến vào Lạng sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc, phátxít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng 11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (tháng 5-1941). Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Một là, đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Ban chấp hành Trung ương nêu rõ máu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phátxít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức"...
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc. Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong cả nước, Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc…) để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang lả nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ: Việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại". Trung ươg quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội đu kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù... với lực lượng sằn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể dành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao lực lượng tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng lạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đứng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.
Câu 5.
Hiệp định Pari về chấm chứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam được ký kết vào ngày 27/1/1973 gồm những nội dung cơ bản sau:
Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Hai bên ngừng bắn ở miền Nam, Hoa Kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam.
Hoa Kì rút hết quân đội của mình và quân các nước đồng minh, hủy bỏ các căn cứ quân sự, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Các bên thừa nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
Hai bên trao trả tù binh và dân thường bị bắt.
Hoa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, thiết lập quan hệ bình thường cùng có lợi với Việt Nam.
Với hiệp định Pari, ta đã buộc Mỹ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đây là bước thắng lợi lớn của nhân dân ta so với Hiệp định Giơnevơ 1954: Mỹ phải rút quân ngay về nước mà không phải đợi đến 2 năm tập kết và phân chia đất nước, nhân dân miền Nam Việt Nam được quyền tự quyết định tương lai chính trị thông qua tổng tuyển cử tự do, không phải mất 2 năm và chịu sự giám sát của ủy ban quốc tế. Chúng ta đã thành công trong việc “đánh cho Mỹ cút” tạo điều kiện thuận lợi để “đánh cho Ngụy nhào” năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Câu 6.
Sau Hiệp định Giơnevơ, đế quốc Mỹ tìm mọi cách thay thế thực dân Pháp ở miền Nam với âm mưu từng bước biến miền Nam thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới ở Đông Nam Á. Âm mưu đó được tiến hành bằng cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài trong suốt 5 đời tổng thống Mỹ.
Chiến tranh xâm lược Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ, chống chủ nghĩa xã hội và phong trào giải phóng dân tộc, nhằm tăng cường vị trí sen đầm quốc tế của Mỹ trên trường quốc tế. Đất nước ta trở thành nơi thử thách sức mạnh và uy tín của đế quốc Mỹ, là nơi diễn ra cuộc đụng đầu lịch sử to lớn.
Nhưng nhân dân Việt Nam đã chiến đấu anh dũng và giành thắng lợi vẻ vang, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari 1973 rút khỏi nước ta và giải phóng hoàn toàn miền Nam mùa xuân 1975, thống nhất đất nước.
Thắng lợi của nhân dân ta đã làm nội bộ nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, các tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi thì bị ám sát, Nich-xơn thì buộc phải từ chức, phong trào phản chiến của người dân Mỹ diễn ra mạnh mẽ. Uy tín của Mỹ trên trường quốc tế bị suy giảm nghiêm trọng. Sau khi thất bại của Mỹ ở Việt Nam, khối SEATO (Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á) cũng giải thể, tạo ra xu thế hòa dịu, đối thoại trong quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
Thắng lợi của nhân dân ta đã tạo điều kiện cho Lào và Campuchia cùng được giải phóng vào năm 1975. Đồng thời, cỗ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mỹ Latinh.
Do đó có thể thấy, nhận định “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là một sự kiện có ý nghĩa quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc” của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn.
Điều đó chứng tỏ con đường cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc – Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 7.
Hiến chương thành lập của Liên hợp quốc năm 1945 nêu rõ mục đích của tổ chức này là duy trì hòa bình và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước. Xuất phát từ cơ sở đó Liên hợp quốc đã đưa ra nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Các quốc gia có nghĩa vụ phải giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình thông qua các biện pháp phi vũ lực. 
Việt Nam đã vận dụng nguyên tắc này trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông hiện nay như sau:
Thứ nhất, tuyên bố lập trường nhất quán của Việt Nam về vấn đề Biển Đông đó là mọi tranh chấp được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002.
Thứ hai, đưa ra đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, từ đó khẳng định mọi hành vi của quốc gia khác tại hai quần đảo này mà không được sự cho phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị.
Thứ ba, không làm tình hình trở nên căng thẳng, không mở rộng phạm vi tranh chấp, tiền hành đàm phán với Trung Quốc nhằm tìm kiếm một biện pháp tốt nhất cho việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông.



Nhận xét

Đăng nhận xét