HÀNH TRÌNH THEO DẤU CHÂN NGƯỜI


MỤC LỤC


                                                                                         

LỜI MỞ ĐẦU




          Là sinh viên chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh, tôi luôn tự hào vì mình được vinh dự có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ. Gần bốn năm học chuyên ngành đã giúp cho tôi hiểu thêm về Bác, đặc biệt là những tấm gương đạo đức của Người, từ đó tôi đã rút ra cho mình nhưng bài học và kinh nghiệm sống trong hiện tại, và trên đoạn đường sắp tới.
          “Có Bác lòng ta trong sáng hơn” – quả thật như đúng như vậy. Khi chúng ta biết nhiều về Bác, hiểu nhiều về Bác thì lòng chúng ta cũng được trải rộng ra, có lẽ do đã hòa cũng với tấm lòng yêu thương con người bao la trời biển của Người. Sự nghiệp của Bác là vĩ đại, nhưng tư tưởng, đạo đức của Người còn vĩ đại hơn. Bởi trên thế giới, hiếm thấy một lãnh tụ dân tộc nào lại gần dân đến như thế, còn nhân dân thì gọi người lãnh tụ của mình bằng một tên gọi thân thương “Bác Hồ” . Suốt cả đời mình, Bác chỉ có một điều tâm nguyện duy nhất là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mạc, ai cũng được học hành. Cho đến khi mất, trong bản Di chúc Người còn căn dặn Đảng và Nhà nước phải có chính sách thật tốt để phát triển kinh tế - văn hóa, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho người dân. Nói về đạo đức của Người, thì đó là một tấm gương đạo đức sáng ngời. Đạo đức của Người không chỉ là những lời nói suông mà là những hành động thực tiễn, từ lối sống, phong cách làm việc cho đến tư tưởng cách mạng.
          Để có thể tìm hiểu, nghiên cứu về Bác và học tập theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Bác thì đó là một quá trình “lâu dài và gian khổ”. Bởi lẽ có người nghiên cứu cả đời mà không thể nghiên cứu hết được, có người đã phải đi “vòng quanh thế giới” như Bác để có thể có được những hiểu biết và cảm nhận thật sự đúng về Người. Do đó, nếu chỉ ngồi trên ghế nhà trường nghe thầy cô giảng bài và vào thư viện hay lên mạng đọc sách không thể khó mà có thể hiểu về Bác một cách tường tận và ý nghĩa được.
Thấu hiểu điều đó và với mong muốn tạo điều kiện cho sinh viên chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh có thể có những trải nghiệm thực tế với ngành học của mình, được đến những nơi mà Bác Hồ đã từng sống, và hoạt động cách mạng, các thầy cô trong Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh khoa Lịch sử - trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia TP.HCM đã tổ chức chuyến đi thực tập thực tế cho sinh viên năm 4 chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh chúng tôi vào cuối học kỳ đầu năm học này (2015 – 2016) với hành trình xuyên Việt từ Thành phố mang tên Người cho đến tận Pác Pó – Cao Bằng, nơi đầu nguồn cách mạng. Và chúng tôi cảm thấy rất tự hào về điều đó.
          Trải qua cuộc hành trình kéo dài suốt 12 ngày 11 đêm, với lộ trình 4618 km và đi qua 22 tỉnh thành, chúng tôi đã hiểu thêm về quê hương, đất nước mình, và càng biết ơn các thế hệ ông cha đi trước cùng biết bao người đã ngã xuống để cho Tổ quốc đứng lên ngày hôm nay. Chúng tôi càng hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi được đến tham quan những địa danh gắn liền với tên tuổi của Người.
Với niềm tự hào và kiêu hãnh đó, đồng thời mong muốn góp thêm một phần công sức của mình vào công việc nghiên cứu chung về Người, tôi quyết định chọn đề tài “Xuyên Việt 2016 – Hành trình theo dấu chân Người” làm đề tài báo cáo thực tập chuyên ngành của mình. Đề tài sẽ trình bày về một số địa danh tiêu biểu mà chúng tôi đã đi qua mà những địa danh đó gắng liền với cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người, bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Phan Thiết - Bình Thuận, Huế, Pác Pó – Cao Bằng và Hà Nội. Ở mỗi địa danh, tôi sẽ trình bày sơ lược về lịch sử hình thành, điều kiện tự nhiên và xã hội, và đặc biệt là cuộc sống và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở những nơi đó. Các địa danh trong bài làm được trình bày theo thứ tự trong chuyến đi nên không đúng với thứ tự thời gian trong cuộc đời hoạt động của Người. Bài làm viết theo lối ký sự và kể chuyện nên ít nhiều mang yếu tố văn học và cảm xúc của người làm trong đó.
Cấu trúc bài làm bao gồm:
Lời nói đầu
Chương 1. Từ thành phố mang tên Bác
Chương 2. Đến mảnh đất cuối cùng của miền Trung - Nơi Bác dừng chân
Chương 3. Đất kinh kỳ - nơi lưu giữ nhiều ký ức tuổi thơ của Bác
Chương 4. Nghệ An - nơi “chôn nhau cắt rốn” của Người
Chương 5. Pác Pó – Cao Bằng, nơi đầu nguồn cách mạng
Chương 6. Bác Hồ “sống mãi với Thủ đô”
Thay lời kết















CHƯƠNG 1. TỪ THÀNH PHỐ MANG TÊN BÁC


          Thành phố Hồ Chí Minh vào những ngày cuối đông[1] thời tiết vẫn oi bức, buổi trưa có khi thời tiết lên đến gần 30 độ C. Riêng vào đêm khuya và rạng sáng thì trời se se lạnh.
          Xe  chúng tôi xuất phát từ lúc 5 giờ 30 phút sáng ngày 18 – 1 – 2016 từ Ký túc xá sinh viên Làng Đại học ở Thủ Đức hướng về tỉnh Đồng Nai, bắt đầu cho cuộc hành trình xuyên Việt.
          Theo lời giới thiệu của anh Minh – hướng dẫn viên trên xe chúng tôi biết được quận Thủ Đức trước đây thuộc phần đất huyện Nghãi An, phủ Phước Long và tổng Long Vĩnh Hạ, huyện Long Thành, phủ Phước Tuy thuộc tỉnh Biên Hòa (một trong sáu tỉnh Nam Kỳ thời Nhà Nguyễn). Về tên gọi của quận Thủ Đức, có nhiều cách lý giải khác nhau, nhưng cách lý giải nhận được sự đồng thuận nhiều nhất hiện nay là do cách gọi ghép của hai từ “Thủ” và “Đức” , “Thủ” là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông khi xưa, còn “Đức” là tên của vị thủ đồn đầu tiên ở đây. Sau có ông Tạ Dương Minh là người Trung Quốc thuộc lớp người “phản Thanh phục Minh” đến quy dân, lập chợ buôn bán, nhớ ơn vị thủ đồn xưa nên lấy tên và chức tước của ông đặt cho chợ. Từ tên gọi của chợ Thủ Đức đã thành tên của quận Thủ Đức hiện nay.
          Từ thành phố mang tên Bác, chúng lên đường tìm về những vùng đất “địa chỉ đỏ” gắn liền với tên tuổi của Người.
Thành phố Hồ Chí Minh được vinh dự mang tên Bác từ ngày 2 – 7 – 1976 khi Quốc hội thống nhất đã biểu quyết thông qua Nghị quyết với số phiếu tán thành 100%, chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định là Thành phố Hồ Chí Minh. Xưa kia, đây là vùng đất thuộc Chân Lạp (Campuchia) với tên gọi là Prey Nokor. Nhờ quá trình khai phá Nam bộ của nhà Nguyễn mà thành phố được hình thành. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố[2]. Khi người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn  được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”.
Đầu năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã đến đây để tìm đường ra nước ngoài với mong muốn tìm ra con đường cứu nước mới, có thể giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Vào đầu tháng 3-1911, anh Thành xin vào học tại một trường dạy nghề ở Sài Gòn. Trong thời gian học 3 tháng ngắn ngủi đó, anh đã dành nhiều thời gian để quan sát cuộc sống ở nơi đây. Anh thấy Sài Gòn đồ sộ và sầm uất hơn những vùng đất mà anh đã đi qua với các công trình to lớn và mới lại như cầu đường, bến cảng, nhà máy, dinh thự, nhà thờ…Và đặc biệt hơn nữa là cuộc sống xa hoa của những người Pháp ở nơi đây. Lần đầu tiên được biết tới tiệm cà phê, bóng đèn điện, rạp chiếu bóng và cả món kem mà anh đã từng đọc được trong sách vở. Đồng thời, anh cũng thấy được cuộc sống khốn khổ của những người dân lao động ở đây, và trái với hình ảnh đó là những “ông Tây”, “bà đầm nghênh đi lại và ức hiếp người dân. “Ngay giữa chợ Bến Thành (Sài Gòn) – mà người ta bảo là một thành phố Pháp – bọn người châu Âu gác chợ cũng giơ roi gân bò, dùi cui đánh phụ nữ bản xứ để bắt họ tránh ra, khỏi làm nghẽn lối đi”[3]. Cảnh tượng đó càng khiến anh nung nấu ý chí ra đi tìm đường cứu nước.
Một hôm, anh Thành tâm sự với anh Lê – một người bạn thân mà anh Thành mới quen được khi đến Sài Gòn. Anh Thành hỏi:
- Anh Lê, anh có yêu nước không?
- Tất nhiên là có – Anh Lê ngạc nhiên trả lời.
- Anh có giữ bí mật được không?
- Có.
- Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào. Tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm…ví như khi đau ốm. Anh muốn đi với tôi không?
- Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?
- Đây,tiền đây – Anh Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay – Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Thế thì anh cùng đi với tôi chứ?
Bị lôi cuốn vì lòng hăng hái của anh Thành, anh Lê nhận lời, nhưng sau đó đã không đủ can đảm để ra đi.
Hồi ấy, bến Nhà Rồng[4] là một thương cảng lớn ở Sài Gòn. Vào trưa ngày 2-6-1911, chiếc tàu Amiral Latouche Tréville của hãng Năm Sao từ Đà Nẵng đến cập cảng này. Và người ta thấy có một chàng thanh niên dáng cao, mảnh khảnh nhưng có đôi mắt rất sáng đến đây để xin việc. Ông thuyền trưởng người Pháp tên Louis Édouard Michel nhìn anh và hỏi:
- Anh có thể làm được việc gì?
- Tôi có thề làm bất cứ công việc gì?
          Nhìn nét mặt cương nghị và thông minh của anh, viên thuyền trưởng mỉm cười:
- Được, tôi đồng ý nhận anh làm phụ bếp, sáng mai anh xuống đây nhận việc. Anh tên là gì?
          Tần ngần một lát, anh Thành đáp:
- Tôi tên là Văn Ba.
          Ngày 3 – 6 – 1911, với thẻ nhân viên mang tên Văn Ba, anh Thành bắt đầu xuống thuyền làm việc với lương tháng là 50 Francs.
Theo tác giả Mai Văn Bộ trong cuốn sách “Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh” thì lúc đó cụ Nguyễn Sinh Sắc đang ở Sài Gòn và làm nghề bốc thuốc.Trước khi lên đường, Nguyễn Tất Thành đã đến từ biệt cha. Thấy cha hốc hác gầy rạc người đi vì quá bận rộn với công việc chuẩn bị ra đi của mình, Thành ái ngại:
- Cha, hồi này sức khỏe của cha suy sụp quá nhiều, cha đã hy sinh cho con biết bao năm dài, nuôi dưỡng, dạy dỗ, dìu dắt con từng bước đường đời. Nay đã từng tuổi này mà con chưa kịp báo đền, quả thật là bất hiếu, ra đi con chưa yên lòng.
- Nước mất thì lo mà cứu, con chỉ có việc đó phải làm. Cứu nước tức là hiếu với cha rồi đó. Con hãy mạnh dạn lên đường. Cha chỉ ở quanh quẩn đất Sài Gòn này để trông tin tức của con.
- Xin cha hãy cố gắng giữ gìn sức khỏe, chờ tin con báo về[5].
Trưa ngày 5-6-1911, tàu Amiral Latouche Tréville bắt đầu rời cảng lên đường sang Pháp. Người thanh niên Nguyễn Tất Thành – Văn Ba đã ra đi tìm đường cứu nước.
Thành phố Hồ Chí Minh khi ấy tiễn Bác ra đi và từ đó cho đến về sau không còn dược lần nào đón Bác về nữa[6].
“Sài Gòn đi trước về sau” – Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là nơi bắt đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trở lại và mãi đến ngày 30-4-1975 mới được giải phóng khi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi, đưa đến thắng lợi hoàn toàn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước Nhà. Sài Gòn – Thủ đô của miền Nam thân yêu mà Bác Hồ luôn hướng tim mình về đó sau hơn 40 xây dựng và phát triển đã trở thành Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại, là một trong hai trung tâm kinh tế - chính trị lớn nhất cả nước. Nhân dân Thành phố đã và đang ra sức xây dựng để Thành phố ngày càng giàu đẹp hơn, xứng đáng với vinh dự là thành phố mang tên Người.
Trở lại với cuộc hành trình, sau khi dừng chân ăn sáng tại thị trấn Dầu Giây[7], chúng tôi tiếp tục lên đường đi về phương Bắc.

 [1] Lúc này đang là tháng 1 năm 2016 nhưng là tháng Chạp năm Ất Mùi.
 [2] Hà Minh Hồng
 (chủ biên) (2012), Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm (1911 – 2011), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM, tr. 9.
[3] Hà Minh Hồng (chủ biên) (2012), Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm (1911 – 2011), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM, tr. 89.
[4] Sở dĩ gọi là Bến Nhà Rồng là bởi tại bến có ngôi nhà trên nóc có đôi rồng được gắn vào theo kiểu “Lưỡng long chầu nguyệt” . Có ý kiến cho rằng xuất phát từ tên của vua Gia Long, “Gia” nghĩa là Nhà, “Long” nghĩa là Rồng.
 [5] Mai Văn Bộ (2007), Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, TP. HCM, tr. 42.
[6] Có tài liệu nói rằng, năm 1912 Nguyễn Tất Thành có trở lại Sài Gòn.
 [7] Huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.



CHƯƠNG 2. MẢNH ĐẤT CUỐI CÙNG CỦA MIỀN TRUNG – NƠI BÁC DỪNG CHÂN


Theo đường quốc lộ 1, xe chúng tôi băng qua thành phố Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai), đến khoảng 10 giờ xe đến thành phố Phan Thiết (tỉnh Bình Thuận).
Bình Thuận là tỉnh duyên hải cực Nam Trung Bộ nhưng lại thuộc vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Còn Phan Thiết là một tỉnh lỵ, trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật trực thuộc tỉnh Bình Thuận.
Theo anh Minh hướng dẫn viên của đoàn cho biết, tên gọi Phan Thiết không phải là một từ thuần việt mà có nguồn gốc từ tiếng Chăm. Có ý kiến cho rằng tên gọi Phan Thiết bắt nguồn từ tên gọi của hoàng tử Po Thit (vốn em của công chúa Po Sah Inư, con của vua Chăm Par Ra Chanh, tức Trà Chanh) từng đóng đồn trấn ngữ vùng đất này vào thế kỷ XIV được người Việt đọc trại ra mà thành Phan Thiết. Tuy nhiên, có một cách giải thích khác được nhiều người ủng hộ mà bản thân anh cũng đồng ý đó là tên gọi Phan Thiết bắt nguồn từ tên gọi “Hamu Lithit”. Khi chưa có người Việt định cư, người Chăm gọi vùng đất này là "Hamu Lithít" - "Hamu" là xóm ruộng bằng, "Lithít" là ở gần biển. Khi bắt đầu có người Việt định cư, vẫn chưa ai có ý định đặt ngay cho vùng đất này một tên gọi mới bằng tiếng Việt. Lâu dần, âm cuối "Lithit" lại được gắn liền với âm "Phan" tách từ phiên âm của tên hai vùng Phan Rang, Phan Rí mà thành ra Phan Tiết (tên gọi ngày xưa) và sau này người ta gọi chuẩn với cái tên là Phan Thiết.
Đất Bình Thuận xưa kia vốn là lãnh thổ của nước Chiêm Thành, các chúa Nguyễn trong quá trình mở cõi xuống phía Nam đã thu phục vùng đất ấy. Năm 1653chúa Nguyễn Phúc Tần đánh chiếm đất Phan Lang (sau gọi là Phan Rang), và chỉ để lại mảnh đất phía Tây cho Chiêm Thành. Năm 1692chúa Nguyễn Phúc Chu lấy luôn mảnh đất còn lại đặt tên là Thuận Phủ và năm 1694 đặt là Thuận Thành trấn. Năm 1697, Lập Bình Thuận phủ gồm 2 huyện An Phước và Hòa Đa. Sau cải thành Bình Thuận Dinh. Đời vua Gia Long vẫn giữ Bình Thuận dinh, đến vua Minh Mạng đổi lại Bình Thuận phủ. Năm 1827, vua Minh Mạng đặt ra hai phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận và hai huyện Tuy Phong và Tuy Định. Bình Thuận được đặt thành tỉnh và giao cho quan Tuần phủ Thuận Khánh kiêm nhiệm luôn tỉnh Khánh Hòa. Từ đó đến nay, địa phận tỉnh Bình Thuận được sáp nhập và chia tách nhiều lần qua nhiều tên gọi khác nhau. Hiện nay, tỉnh Bình Thuận có 1 thành phố (Phan Thiết), 1 thị xã (La Gi) và 8 huyện trực thuộc là Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh, Hàm Tân, Đức Linh và Phú Qúy, trong đó Phú Qúy là huyện đảo với tổng diện tích là 7828 km2, nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 200 km [8].
Bình Thuận là khu vực khô hạn nhất cả nước, nhiều nắng, nhiều gió, không có mùa đông, nhiệt độ trung bình năm là 26 – 27 độ C. Khí hậu thay đổi theo 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Do chúng tôi đi qua Bình Thuận ngay mùa khô nên mặc dù đang là cuối đông nhưng thời tiết ở đây vẫn vô cùng oi bức, trên đường đi có thể thấy được những đồi cát như trong sa mạc.
Do có bờ biển kéo dài Chiều dài bờ biển 192 km, nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp như Mũi Né, Mũi Kê gà, Núi Tà Cú, Bàu Trắng, Gành son và hiều điểm di tích văn hoá, lịch sử nổi tiếng như: Tháp Chăm Poshanư, Chùa núi Tà Cú, Dinh Thầy Thím, Cổ Thạch Tự, Di tích Dục Thanh nên Bình thuận là một vùng đất giàu tiềm năng du lịch. Người dân ở đây ngoài việc sinh sống bằng nghề nông (trồng lúa, thanh long, nho, nuôi heo, bò..) còn phát triển các dịch vụ du lịch. Vùng biển Bình Thuận nằm trong ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận nên nghề đánh bắt và chế biến hải sản ở đây cũng rất phát triển, trong đó nổi tiếng nhất là nước mắm ở Phan Thiết. Đến Phan Thiết, du khách ngoài việc tham quan, tắm biển còn có thể mua các sản vật như mật nho, cá khô, nước mắm…về làm quà tặng. Nước mắm Phan Thiết nổi tiếng từ lâu đời và không thua gì nước mắm Phú Quốc ở Kiên Giang.
Bình Thuận là một vùng đất giàu tài nguyên với các mỏ khoán sản có trữ lượng lớn như cát thủy tinh, đá Granit, sét Bentonit, nước khoáng, sét làm gạch ngói, Ilmenit -Zicon (TiO2), muối công nghiệp. Dầu khí là nguồn tài nguyên gần bờ biển, có tiềm năng khai thác với các mỏ có trữ lượng lớn và chất lượng tốt như Sử Tử Đen, Trắng, Sư Tử Nâu, Sư Tử Vàng, Rubi. Trong đó nước khoán Vĩnh Hảo trở thành một thương hiệu lớn của tỉnh Bình Thuận.
Vào đầu thế kỷ XX, Bình Thuận là nơi gặp gỡ của nhiều sĩ phu yêu nước Bắc – Trung – Nam. Sở dĩ nói như vậy là vì từ những ngày đầu đánh Pháp, Bình Thuận đã là nơi tụ họp của các sĩ phu yêu nước, còn Phan Thiết thì được coi là đất “tị địa”, không khí chính trị ở đây không ngột ngạt như các tỉnh miền Trung khác nên có thể là nơi ẩn náu của những người bị theo dõi hoặc rời bò quê hương vì mục đích chính trị…Hơn nữa, lúc nay hai viên Khâm sứ Trung kỳ và Công sứ Bình Thuận đang mâu thuẫn nên các sĩ phu ở đây được phép thực hiện nhiều việc hơn. Tại đây, Công sứ Garneé không theo lệnh Tòa Khâm sứ nên các cơ sở của phong trào Duy Tân, trong đó có Công ty Liên Thành[9] không bị phá hủy mà vẫn còn hoạt động. Hơn nữa, Bình Thuận là đất nằm giữa Nam Kỳ (xứ thuộc địa) và Trung Kỳ (xứ bảo hộ), muốn qua lại giữa hai vùng này phải có giấy thông hành và các thủ tục khác như đi sang một nước khác. Do đó, nhiều sĩ phu, trong đó có cụ Phan Châu Trinh muốn đi vào Nam phải dừng lại Phan Thiết, tìm cách xin giấy thông hành rồi mới có thể đi tiếp[10].
Vào mùa thu năm 1910, Nguyễn Tất Thành đã từng dừng chân ở đây và là thầy giáo dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết).
Trường Dục Thanh được thành lập vào năm 1906 bởi hai ông Nguyễn Trọng Lội và Nguyễn Qúy Anh (con cụ Nguyễn Thông), với sự cộng tác của những người thân tín và cấp tiến như Truong Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi, Trần Quang Nghiêm, Trần Đình Phiên (con Trần Đình Phong). Trường được xây dựng trên khu đất của Ngọa Du sào[11], gồm một nhà thờ gỗ lợp ngói khá rộng, nằm giữa nhà thờ và nhà thảo bạt.
Chuyện kể rằng, trước khi đi vào Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành đã đến huyện Bình Khê (Bình Định) để thăm cha là cụ Nguyễn Sinh Sắc đang làm Tri huyện ở đây. Thấy con đến, cụ Sắc lạnh lùng hỏi:
- Con đi đâu mà qua đây?
- Dạ, con đến với cha ạ.
- Anh đến với tôi để làm gì?
- Con đến thăm cha để rồi…con đi…
Nét mặt cụ Sắc đã ấm lại và thoáng cười tươi:
- Được. Cha cứ tưởng con đi theo cha thì đáng buồn. Con phải tự tìm ra cho mình một hướng đi, một con đường. Đời cha không có con đường, chỉ có một ngõ cụt. Cha đã không làm được điều mình hằng ước nguyện: Vì Tổ quốc mà ngã giữa trận tuyền, vì công bằng mà rơi đầu trước đám cường quyền bạo ngược. Cha đành chịu phận: chí đoản hận trường (chí nhỏ hận dài).
- Nhớ lời cha dặn con hồi năm ngoái, nay con định đến Phan Thiết, trao phong thư của cha tới ông Hồ Tá Bang. Con sẽ xin được dạy học ở trường Dục Thanh một thời gian, cha ạ.
- Phải. Con cứ mạnh dạn làm, một khi lòng đã quyết. Con đã đến tuổi tráng niên rồi. Nhớ là: “Kỳ ấu giả duy phụ mẫu sở hữu chi nhân, kỳ tráng duy quốc gia sở hữu chi nhân, kỳ lão duy hậu thế sở quan trọng chi nhân (Lúc ta còn thơ ấu thì thuộc quyền cha mẹ, lúc ta lớn lên thuộc về đất nước, lúc về già lại dành cho lớp người sau là quan trọng nhất).
Sau khi vào Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành được nhận vào dạy ở trường Dục Thanh với vai trò là trợ giáo, dạy môn thể dục. Ngoài ra anh còn dạy thêm các môn ngoại ngữ vào giờ ngoại khóa và phụ trách thư viện của trường. Tại trường, anh ở cùng học sinh nội trú tại một căn nhà có tên là nhà Ngư trong vườn cụ Nguyễn Thông.
Chỉ lưu lại Phan Thiết một thời gian nhưng thầy Thành đã để lại một dấu ấn không nhỏ trong những người nơi đây, mọi người đều yêu quý thầy. Nhà văn Sơn Tùng trong tác phẩm Búp sen xanh đã miêu tả thầy giáo Nguyễn Tất Thành khi lên lớp thường “bận bộ dài trắng, cổ đứng, đi guốc gỗ mộc, ôm cặp da bò màu vàng cam, bước khoan thai vào lớp. Cả lớp học đón thầy với một không khí ấm cúng, trật tự và lễ phép”[12].
Bác sĩ Nguyễn Kính Chi – Thứ trưởng Bộ Y tế nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa – người từng là học trò của thầy Thành ở trường Dục Thanh kể lại rằng: năm đó Nguyễn Tất Thành 20 tuổi, dáng người thanh thanh, hớt tóc ngắn, trán cao, nét mắt long lanh như lúc nào cũng cười. Nguyễn Tất Thành được ở trong ký túc xá của trường nhưng anh ít ở đó mà sang ngủ và ăn ở chung với các học sinh. Anh chỉ đến Ngọa Du sào đọc sách và bàn chuyện với các thầy khác…Ngoài ra thường mỗi sáng một đôi lần vào ngày chủ nhật, Nguyễn Tất Thành đưa học trò đi chơi ở động cát Thiềng Đức hoặc đến bờ biển Chương Thánh. Những lần đi như vậy Nguyễn Tất Thành thường giảng về địa lý và lịch sử đất nước cho học sinh nghe. Cũng theo hồi ức của nhiều người, thầy Thành từng giảng giải cho học sinh nghe về thiên văn và sao chổi năm 1910, thầy cũng hay đi thăm, kết thân và tìm hiểu đời sống nhân dân lao động các làng chài[13].
Tết nguyên Đán năm 1910, thầy Thành ở nhà với gia đình và con cháu cụ Nguyễn Thông. Tết Trung Thu năm canh Tuất (18-8-1910) tại trường Dục Thanh có diễn ra một buổi tiệc mừng. Và sau đó thầy Thành ra đi.
Để tránh cuộc chia tay nặng lòng kẻ ở người đi, thầy Thành đã để lại một bức thư giải thích rằng “thầy không thể ở lại trường Dục Thanh lâu hơn nữa. Thầy phải đi, đi rất xa. Ước mơ về một ngày mai nước nhà độc lập đang kêu gọi thầy dấn bước ra đi…Thầy đi xa nhưng lòng vẫn nhớ, vẫn gần các em. Thầy mong các em học giỏi, chăm ngoan, biết kính người già, nhường người trẻ, yêu quý mọi người”.
Cùng đi với thầy Thành vào Sài Gòn có cụ Nghè Trương Gia Mô, cụ Hồ Tá Bang và Trần Lê Chất là ba trong sáu thành viên của Ban Quản trị công ty Liên Thành. Tuy đường vào Sài Gòn chỉ có 200 cây số nhưng vì lúc đó không có xe, họ phải đi bằng ghe chở nước mắm. Do giữa đường gặp sóng to gió lớn, phải ghé vào Vũng Tàu nên mãi tới tháng 2 – 1911 Nguyễn Tất Thành mới vào tới Sài Gòn.
Khi cụ Nguyễn Sinh Sắc tới Phan Thiết thì Nguyễn Tất Thành không còn ở đấy nữa, và tại đây theo sự chỉ dẫn của gia đình ông nghè Mô, cụ đi thẳng vào Sài Gòn đến nhà ông Lê Văn Đại ở xóm cầu Rạch Bần (nay là số 185 đường Cô Bắc, TP.Hồ Chí Minh). Tại nơi đây đã diễn ra cuộc chia tay giữa hai cha con trước khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Xe chúng tôi đi qua Phan Thiết, nhưng không có điều kiện để ghé trường Dục Thanh, sau mấy mươi năm kể từ khi Bác ra đi, chắc trường giờ đây đã có nhiều thay đổi. Nhưng những dấu ấn của vẫn còn đọng lại rất sâu đậm trong lòng những người dân nơi đây. Bình Thuận chưa một lần được đón Bác về thăm kể từ khi nước nhà được độc lập nhưng vẫn mong nhớ Bác. Nhân kỷ niệm 120 ngày sinh của Bác và 100 năm ngày Bác dừng chân dạy học ở trường Dục Thanh vào giữa năm 2010, hàng trăm đại biểu là các nhà chuyên môn đã tham gia một cuộc hội thảo quy mô lớn về sự nghiệp của Người trong quãng thời gian dừng chân ở Dục Thanh – Phan Thiết.
Rời khỏi Bình Thuận, xe chúng tôi tiếp tục bước qua ranh giới của tỉnh Ninh Thuận và ghé lại Cà Ná dùng cơm trưa. Đoàn tiếp tục đi qua các địa danh và ngắm biển Đại Lãnh, ngắm cảnh Đèo Cả. Tối đến, chúng tôi dừng chân ăn tối tại nhà hàng Bãi Tiên, Sông Cầu – Phú Yên. Gần 22 giờ, xe đến Quy Nhơn (Bình Định), chúng tôi dừng chân và nghỉ qua đêm tại khách sạn Hưng Thịnh, kết thúc ngày đầu tiên hành trình theo chân Bác.

[9] Công ty Liên Thành được thành lập ở Phan Thiết, là một tổ hợp gồm ba tổ chức: Liên Thành thương quán, Liên Thành thư xã và Dục Thanh học hiệu (trường Dục Thanh) – những cơ sở gắn liền với các vấn đề kinh tế - văn hóa xã hội – giáo dục để các sĩ phu  duy tân thực hiện chí hướng của mình. Tên Liên Thành ngụ ý bảo vệ truyền thống, có nghĩa là thành hoa sen.
[10] Hà Minh Hồng (chủ biên) (2012), Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm (1911 – 2011), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM, tr. 61 – 63.
[11] Trong ba mươi năm cuối đời mình, cụ Nguyễn Thông dựng bên bờ sông Mương Mán một nhà thờ, sau nhà thờ là nhà ở. Trên gác có phòng đọc sách, xung quanh tường vẽ là những cảnh cụ đã từng thưởng ngoạn, dọi là Ngọa du sào (cái tổ để nằm chơi), bên cạnh có ngôi nhà thảo bạt để cho khách nghỉ chân, bàn chuyện. Nơi đây từng là nơi lui tới của nhiều sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ.
[12] Sơn Tùng (2015), Búp Sen Xanh, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, tr. 245.
[13] Hà Minh Hồng (chủ biên) (2012), Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm (1911 – 2011), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM, tr. 66 – 67.



CHƯƠNG 3. ĐẤT KINH KỲ - NƠI LƯU GIỮ NHIỀU KÝ ỨC TUỔI THƠ CỦA BÁC


Ngày thứ hai, chúng tôi xuất phát từ 5 giờ sáng, hướng về tỉnh Quảng Ngãi. Xe đi ngang qua núi Thiên Ấn, nằm ở tả ngạn sông Trà Khúc, nơi yên nghỉ của nhà chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng vốn là một trong những đại biểu của phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh khởi xướng vào đầu thế kỷ XX. Vì lý do đó, cụ bị bắt trong năm Mậu Thân (1908), rồi bị đày ở Côn Đảo suốt 13 năm (1908 – 1921) mới được trả tự do. Sau khi ra tù, cụ vẫn tiếp tục hoạt động trong phong trào dân tộc dân chủ. Khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh vì mến mộ tài đức mà mời cụ ra tham gia nội các Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Sau, cụ lại được bầu làm chủ tịch Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Liên Việt). 
Về mối quan hệ giữa Cụ Huỳnh Thúc Kháng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể nói không chỉ là tỉnh cảm giữa những người đồng chí mà còn là tình cảm của những người thân trong gia đình. Bác luôn kính trọng và xem cụ như những vị tiền bối đi trước.
Chuyện kể rằng, vào sáng ngày 31 – 5 – 1946, Bác Hồ rời Hà Nội đi Pháp để mở cuộc đàm phán chính thức với chính phủ Pháp. Sân bay Gia Lâm hôm ấy đông nghịt người ra tiễn. Bác đi một vòng chào các đại biểu và đồng bào. Đồng bào vẫy cờ, vỗ tay hoan hô và chen lấn nhau ra phía trước để được nhìn rõ Người.
    Sắp đến giờ lên máy bay, Bác tới nắm tay cụ Huỳnh nói:
    - Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết cho. Mong Cụ “dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy cái không thay đổi để đối phó với muôn sự thay đổi).
    Cụ Huỳnh rất cảm động, cầm tay Bác hồi lâu, Bác đã ủy nhiệm cụ Huỳnh làm Quyền Chủ tịch nước trong thời gian Bác đi vắng.
Theo GS.TS Hoàng Chí Bảo, cụ Huỳnh Thúc Kháng là một trong những người “giục Báclấy vợ”. Trong một buổi cơm thân mật năm 1946, cụ Huỳnh đã tặng Bác  hai câu thơ hóm hỉnh:
“Năm mươi sáu tuổi vẫn chưa già
Cụ ông thì có, cụ bà thì không?”
Sau này, trong thời gian ở Paris, ngoài các bức điện văn gửi về hỏi thăm tình hình, Bác đã gửi tặng một bài thơ để đáp lại lời khuyên của cụ Huỳnh:
“Cụ Huỳnh, nhớ lắm cụ Huỳnh ơi,
                                   Nghĩ chẳng ra thơ để trả lời.
        Giang sơn đất nước cùng nhau gánh,
                                    Độc lập xong rồi lấy vợ thôi.”
Những câu chuyện cảm động trên không chỉ cho thấy tình cảm giữa Bác với cụ Huỳnh Thúc Kháng mà còn cho thấy tài năng  của Bác trong việc trong dụng nhân tài. Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy được  nỗi lòng của một người lãnh tụ dân tộc khi đất nước còn khó khăn, sẵn sàng hy sinh việc cá nhân mà lo cho việc chung của dân tộc.
Dọc đường chúng tôi ghé thăm bệnh xá Đặng Thùy Trâm ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nơi lưu giữ những dấu tích của Liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Buổi trưa, chúng tôi ăn cơm tại quán cơm Gốc Đa với các món ăn mạng đậm chất hương vị của vùng quê hương Quảng Ngãi.
Buổi chiều, chúng tôi đến tham quan tại khu tưởng niệm chiến tích Sơn Mỹ - nơi trưng bay các hình ảnh tội ác của Mỹ và tay sai trong vụ thảm sát Mỹ Lai. Sau đó, xe tiếp tục lên đường đi qua địa phận tỉnh Quảng Nam, đến Đà Nẵng, vượt qua đèo Hải Vân đến Thừa Thiên Huế.
Tối đó, sau khi dùng cơm tại nhà hàng – khách sạn Hoàng Tuấn, chúng tôi dạo bước trên những con đường thơ mộng của xứ sở cố đô. Khí hậu ở Huế mùa này se se lạnh, do từ Đèo Cả trở ra khí hậu của nước ta bắt đầu chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc từ Trung Quốc thổi xuống. Do đang lúc này là những ngày giáp tết nên những con phố của Huế tràn ngập đèn hoa, trông thật tráng lệ. Ngoài đường, ngoài những người Việt Nam đang thênh thang dạo bước, còn có những người Tây và người Hàn Quốc đang đến đây du lịch.
Cũng như các nhà văn, nhà thơ hay ca tụng, sông Hương mùa này nước chảy êm đềm như mái tóc của người con gái trong độ tuổi xuân thì, được cầu Tràng Tiền bắc ngang như một chiếc lược ngà đang chải chuốt trên đó. Đang đêm, nên cầu Tràng Tiền trở nên tĩnh lặng và nước sông Hương càng êm đềm hơn nữa. Dưới chân cầu là một công viên, ở đó có rất nhiều bạn trẻ đang tấp nập nơi đây, không phải để hẹn hò mà là để cố mua cho được một ổ bánh mì thịt của cô gánh hàng rong ở đó. Gánh hàng cũng đơn sơ như những gánh hàng bánh mì thịt ở chợ Bến Thành nhưng không hiểu sau lại có nhiều người xếp hàng mua đến như vậy. Tôi chưa có cơ hội được ăn bánh mì này, nhưng nghĩ chắc là ngon lắm, có thể đây là một loại “đặc sản vỉa hè” ở Huế. Chúng tôi ghé vào ăn một quá chè Huế bên đường, nhiều người trong đoàn bị thu hút bởi món Chè heo quay, đặc sản của Huế. Không ai có thể quên được khi nghe chị bán chè nói chuyện với một cái giọng nói thân thương, nhưng thật nhã nhặn, dịu êm, bởi cái đẹp vốn có của người con gái  Huế.
Thời tiết se se lạnh làm cho tôi nhớ đến cái rét của Bác Hồ vào những ngày giáp tết đầu năm 1901. Cái rét đó không phải là cái rét của khí trời mà là cái rét ở trong lòng người, mà đúng hơn là nỗi đau xé gan xé thịt.
Từ năm 1895, cụ Nguyễn Sinh Sắc vì đang học ở trường Quốc Tử Giám tại Huế và chuẩn bị cho kỳ thi sau nên đã đưa vợ và và hai con trai từ Nghệ An vào chung sống. Gia đình Bác ở tại một ngôi nhà tranh ba gian gần Viện Đô Sát trong thành nội (nay là số nhà 112 đường Mai Thúc Loan). Khi ấy Bác mới 11 tuổi, con đang là cậu bé Nguyễn Sinh Cung[14]. Mẹ Bác mới sinh em bé và đang mắc bệnh hậu sản. Anh trai Bác thì đang theo cha đi coi thi ngoài Thanh Hóa, còn chị thì đang ở quê chăm sóc bà ngoại. Một mình Bác ở nhà vừa chăm em, vừa lo cơm nước vừa thang thuốc cho mẹ. Vào một buổi sáng, ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý nhằm ngày 10 – 2 – 1911, khắp kinh thành Huế trùm phủ một màu ảm đạm. Bác đang trên đường đi mua cơm và thuốc cho mẹ về thì hay tin mẹ mất, Bác vội chạy thật nhanh về nhà, nước mắt giàn giụa, cố kìm nén nỗi đau không cho ra tiếng khóc thì thấy mẹ thi hài mẹ đang nằm trên giường, một tay buôn thỏng xuống, một tay đang ôm lấy bé Xin. Cả đất trời dường như tối sầm lại. Ngày 23 tháng Chạp, cái ngày mà người ta đưa tiễn ông Táo lên chầu trời cũng là ngày mà Bác đưa tiễn linh cửu mẹ mình về nơi yên nghỉ. Nhờ những người hàng xóm tốt bụng lo toan giúp đỡ, nên tang lễ của bà Hoàng Thị Loan cũng diễn ra chu tất. Và những ngày sau đó là những ngày đau khổ nhất trong cuộc đời của Bác. Trong tiểu thuyết Búp Sen xanh, nhà văn Sơn Tùng đã kể lại:
“Chôn cất mẹ xong, Côn lại bế em về với ngôi nhà hoang vắng trong thành nội. Bà con hàng xóm, các nhà có con học ông cử Sắc đều muốn đón anh em Côn về ở với gia đình họ. Nhưng Côn không đến ở nhà ai. Em còn nhỏ, đang lâm bệnh ỉa chảy, lại là ngày Tết, nhà nào cũng có cỗ bàn sang trọng, khách khứa đông vui người ta sẽ khó chịu về sự có mặt của hai đứa trẻ mồ côi mẹ này! Những đêm đầu tiên vắng mẹ, Côn thấy rờn rợn trong đầu. Bé Xin nhớ hơi mẹ, thèm sữa gào khóc; không dỗ được em nín, khổ quá, Côn khóc luôn với em. Tiếng "eng éc" của con chim cú lợn kêu từ đêm trước lại hiện đến trong Côn với cảm giác như bị cái cột nứa cứa vào bàn tay. Côn cất tiếng ru :
À ơi. Bồng bồng bế bế bồng bồng...
Cò con theo mẹ sang sông đắm đò...
À ơi đắm đò ướt hết thân cò...
Cò con cò mẹ lò dò sang sông...
Bồng... bồng... bế... bế... ớ... bồng... ơ... bồng...
Cái cảm giác sợ hãi đã bay biến thì nỗi cô đơn lại bao trùm lấy tâm trí Côn lúc cả kinh thành bay lên theo tiếng pháo giao thừa. Côn phải dỗ em bằng kẹo, bánh của các bạn đem đến cho. Tuy em Xin chưa biết nói, Côn vẫn trò chuyện với em như nó đã tiếp nhận được mọi điều của anh nói ra :
- Em ăn cái bánh ni ngon hơn mọi thứ bánh khác, đây là lộc của đức Hoàng phi Thành Thái cho anh em mình đó. Em có biết không, mẹ Công tôn nữ Huệ Minh thưa với đức Hoàng phi về tình cảnh của anh em mình, cha mình là cử nhân, là giám sinh đang chấm thi ngoài tỉnh Thanh...
Mặc anh dỗ dành, nựng chiều, bé Xin vẫn không ăn bánh, không đòi bú và cả tiếng khóc cũng đang đuối dần! Côn bế em vào lòng, tựa lưng bên bàn thờ mẹ nhìn đau đáu trong đêm đen quạnh quẽ mịt mù...”[15].
Sáng hôm sau, chúng tôi đón bình minh của xứ Huế từ lúc tờ mờ sáng. Đúng 7 giờ xe bắt đầu lên đường với City tour tại Thành phố Huế. Sau khi ăn sáng, chúng tôi đến tham quan quần thể di tích Kinh thành triều Nguyễn với Lầu Ngũ Phụng, Ngọ Môn, Điện Thái Hòa, Cửu Đỉnh, Thái Miếu...Lần đầu tiên được đến thăm Kinh thành Huế, nhưng tôi có cảm giác dường như nó không nguy nga, tráng lệ như trong suy nghĩ của tôi. Có lẽ do trong tâm thức của tôi, kinh thành Huế từng là nơi đóng đô của suốt 13 đời vua triều Nguyễn và từng là thủ phủ của nhiều triều đại trước đó nên chắc hẳn phải có tầm vóc vĩ đại lắm. Cũng có thể do lưỡi dao thời gian và sự tàn phá của chiến tranh nên kinh thành ngày nay không còn được như những gì trong sử sách còn ghi chép lại.
Vốn từng là thủ phủ, là kinh đô của nhiều triều đại trước đây, nên Huế là chứng nhân lịch sử của biết bao chuyện bể dâu dời đổi. Huế trước kia là đất của Chiêm Thành nằm trong vùng châu Ô và châu Rí, vào đầu thế kỷ XVI thì thuộc về nước ta khi vua Trần Nhân Tông gả con gái là công chúa Huyền Trân cho nên vua Chiêm là Chế Mân đã dâng hai châu này cho nước ta để làm sính lễ, vua Trần Anh Tôn mới đổi tên mới là châu Thuận và châu Hóa. Vào đầu thế kỷ XV, khi nhà Hồ đại bại, nước ta bị nhà Minh đô hộ thì Huế lại thuộc về phủ Thuận Hóa (gồm cả hai châu ở trên) dưới sự cai trị tàn bạo của bọn quan lại nhà Minh. Sau khi Lê Lợi đại thắng quân Minh năm 1428, lập ra nhà Hậu Lê thì  Thuận Hóa trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh. Từ thế kỷ XVII, khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam, hai họ Trịnh – Nguyễn phân tranh thì Huế, khi ấy là đất của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, lại phải chứng kiến cảnh nước nhà bị chia cắt, nhân dân trong cảnh lầm than loạn lạc. Kề từ năm 1738, dưới thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát thì Huế chính thức trở thành phủ chúa với tên gọi Phú Xuân, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (trước đó, năm 1687, Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Trăn đã dời Phủ chúa về làng Phú Xuân, nhưng vì nhiều lý do, các chúa đời sau lại dời đi chỗ khác)[16]. Năm 1774, nhân lúc Tây Sơn khởi binh đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong, quân Trịnh đã chiếm thành Phú Xuân và Huế thuộc về tay họ Trịnh. Năm 1786 quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ hạ thành Phú Xuân, kể từ đó Phú Xuân – Huế luôn trở thành một địa bàn chiến lược được Nguyễn Huệ vô cùng coi trọng và chọn là nơi đóng đại bản doanh. Năm 1802 Nguyễn Ánh tiêu diệt Tây Sơn thì Phú Xuân lại trở thành kinh đô của triều Nguyễn. Năm 1883, thực dân Pháp tấn công vào cửa biển Thuận An, buộc triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Hác – măng công nhận nền thống trị của Pháp trên đất nước ta. Một lần nữa Huế lại phải chứng kiến cảnh nước ta bị đô hộ, đời sống của nhân dân khốn khổ, các cuộc đấu tranh bị dìm trong bể máu, nhiều vị vua vì có tư tưởng yêu nước chống Pháp mà bị đày đi tận xứ châu Phi. Cũng tại nơi đây, Huế đã chứng lòng yêu nước và hoài bão tìm đường cứu nước của Bác Hồ kính yêu đang lớn lên theo từng ngày từng tháng. Mùa Thu năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà giành được độc lập. Ngày 23 – 8, nhân dân ta giành được chính quyền ở Huế. Ngày 30 – 8, vua Bảo Đại vị vua cuối cùng của triều Nguyễn đã trao ấn kiếm cho chính quyền cách mạng và tuyên bố thoái vị với mong muốn “thà làm dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ. Mùa đông năm 1946, hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân Huế lại nhất tề đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Sau 9 năm kháng chiến gian khổ, tưởng đâu đã đau khổ lắm rồi, nhưng có ngờ đâu một lần nữa Huế lại chứng kiến cảnh nước nhà trước nỗi đau chia cắt, và Huế lại trở thành một phần máu thịt của miền Nam. Một lần nữa, nhân dân Huế lại đứng lên tranh đấu vì “không có gì quý hơn độc lập, tự do” với quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Sau hai 21 năm chia cách, Huế lại trở về với những ngày bình yên, nhưng đâu đó vẫn còn nhưng vết thương chiến tranh với những cảnh hoang tàn đổ nát mà nhân dân cố đô phải mất nhiều năm để xây dựng lại. Ngày nay, Huế đã là nơi của những di sản văn hóa thế giới, những di tích quốc gia. Nước sông Hương đã êm đềm và cầu Tràng Tiền vẫn nên thơ khi được dệt lên đó chiến nón bài thơ và màu áo tím.
Trong các địa điểm tham quan tại Kinh thành, tôi chú ý nhiều nhất đến diện Cần Chánh, là nơi mà các vua triều Nguyễn cùng các quan thiết triều. Trước sân điện còn một số tượng các quan do người đời sau dựng lại để miêu tả cảnh thiết triều ngày xưa. Vào đầu năm 1901, Bác Hồ của chúng ta khi ấy là cậu bé Nguyễn Sinh Côn đã từng chứng kiến cảnh thiết triều của vua Thành Thái nhân ngày Vạn Thọ (sinh nhật) của vua. Buổi lễ ấy đã gợi lên trong đầu cậu bé Côn những suy nghĩ về sự khác biệt giữa cuộc sống giàu sang của các vị vua quan và cuộc sống bần hàn của những người dân lao động.

Quan cảnh Cố đô Huế sáng ngày 20 – 1 – 2016.

Sau khi tham quan xong Kinh thành Huế, xe chúng tôi di chuyển đến chùa Thiên Mụ, trên đường chúng tôi có đi ngang qua trường Quốc học, một trường học nổi tiếng ở nước ta dưới thời nhà Nguyễn. Vào năm 1908, khi Bác Hồ theo cha ra Huế lần thứ hai, người đã được vào học ở trường này. Trong thời gian học ở Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với nhiều sách báo Pháp. Trong các thầy giáo của trường, có cả người Pháp lẫn người Việt, cũng có những người yêu nước như thầy Hoàng Thông và thầy Lê Văn Mến. Chính nhờ ảnh hưởng của các thầy giáo yêu nước và sách báo tiến bộ mà Người đã được tiếp xúc, ý muốn đi sang phương tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi những thành tựu của văn minh nhân loại từng bước lớn dần trong tâm trí của Người. Cùng thời gian đó, Người còn được nghe kể về hoạt động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận về con đường cứu nước của các sĩ phu yêu nước. Trước đó, vào tháng 4 – 1908, xảy ra một sự kiện đáng ghi nhớ trong cuộc đời của Bác, Người tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tỉnh Thừa Thiên, khởi đầu cho cuộc tranh đấu suốt đời Bác vì quyền lợi của nhân dân lao động. Vì những hoạt động yêu nước, tham gia cuộc đấu tranh của nông dân, Bác bị thực dân Pháp để ý theo dõi. Cụ Nguyễn Sinh Sắc cũng bị chúng khiển trách vì đã để cho con trai có những hoạt động bài Pháp. Sau đó, vì muốn thực hiện chí lớn “đánh đuổi giặc Pháp, giải phóng đồng bào”, Nguyễn Tất Thành bỏ trường đã đi vào nam để tìm hướng đi riêng cho mình.
Sau khi đến tham quan chùa Thiên Mụ, chúng tôi quay lại khách sạn Hoàng Tuấn dùng cơm và tiếp tục cuộc hành trình đến Quảng Trị.
Buổi chiều, chúng tôi đến tham quan, viếng Thành cổ Quảng Trị, dâng hương cho các liệt sĩ và được nghe kể về câu chuyện 81 ngày đêm rực lửa của quân và dân ta anh dũng chiến đấu dưới làn mưa bom bão đạn của đế quốc Mỹ và tay sai để bao vệ Thành cổ.
Xe tiếp tục di chuyển và đi ngang qua các địa danh huyền thoại như Thánh địa La Vang, Xa lộ Kinh hoàng, sông Bến Hải, cầu Hiền Lương. Xế chiều, chúng tôi đến tham quan địa đạo Vịnh Mốc – bằng chứng tiêu biểu cho thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta nói chung và nhân dân Quảng Trị nói riêng.
Sau đó, xe tiếp tục lên đường ra Đồng Hới, Quảng Bình. Chúng tôi dừng lại, ăn tối và nghỉ ngơi tại khách sạn Hà Nội, gần bờ biển Nhật Lệ.
[14] Do cách phát âm của của người Nghệ An nên Nguyễn Sinh Cung đọc chạy ra là Nguyễn Sinh Côn.
[15] Sơn Tùng (2015), Búp Sen Xanh, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, tr. 111 – 112.

    


CHƯƠNG 4. NGHỆ AN – NƠI “CHÔN NHAU CẮT RỐN” CỦA NGƯỜI


Ngày thứ tư, xe chúng tôi khởi hành từ lúc 6 giờ sáng, đi từ Quảng Bình ra Vinh, trên đường đi, đoàn ghé ghé lại Vũng Chùa viếng mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Do trời sương nặng ướt cả đường nên khi xuống xe chúng tôi phải đội mũ. Mộ còn đang trong quá trình xây dựng nên chưa có gì, kể cả nhà vệ sinh, nhưng ẩn sâu trong đó là tâm hồn và hình tượng của một người anh hùng vĩ đại, một vị dũng tướng, người học trò xuất sắc của Bác Hồ, người đã góp phần làm nên những chiến công rực rỡ của dân tộc Việt Nam.
Sau đó, chúng tôi tiếp tục lên đường đến ghé thăm khu di tích Ngã ba Đồng Lộc, nơi mà “Còn đây ý chí mười cô gái/Dũng cảm hy sinh thưở má đào”. Kết thúc buổi sáng, chúng tôi dùng cơm trưa tại khách sạn Bến Thủy – Vinh. Vinh là một thành phố trực thuộc tỉnh Nghệ An. Vào khoảng tháng 9 – 1905, Bác Hồ cùng anh là Nguyễn Tất Đạt được ông cha xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp – bản xứ ở nơi đây. Chính tại ngôi trường này, lần đầu tiên Người được tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do – Bình đẳng – Bác ái.
Sau khi dùng cơm trưa xong, chúng tôi di chuyển về Nam Đàn – Nghệ An, ghé thăm thôn Hoàng Trù và Làng Sen là quê ngoại và quê nội của Bác Hồ, những nơi gắn liền với Người trong suốt thời thơ ấu bên gia đình.
Nói đến Nghệ An, người ta thường nghĩ ngay đến câu thành ngữ “chó ăn đá, gà ăn sỏi” bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên ở nơi đây. Đất Nghệ An vốn ít ruộng nương, nhiều đồi núi. Mùa hè thì có gió Phơn từ Lào thổi sang, nóng và khô đến nứt đất, cỏ cây không mọc được. Ngoài những ngày tháng khô nóng, lại có những mùa mưa to gió lớn. Do đó, người dân ở đây luôn phải sống trong cảnh “thắt lưng buộc bụng”. Nói đến đức tính cần kiệm của người Nghệ An, chúng ta lại nhớ tới câu chuyện anh học trò nghèo và con cá gỗ mà người dân Nghệ An hay kể.         Có lẽ, là một người con ưu tú của xứ Nghệ nên Bác Hồ cũng ít nhiều được giáo dục bởi những đức tính này. Cũng có thể do hoàn cảnh khắc nghiệt đã góp phần hình thành nên ý chí kiên cường, phấn đấu của người dân ở nơi đây. Từ xa xưa người dân Nghệ An đã có truyền thống hiếu học và ý chí kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm, và Nghệ An trở thành vùng đất “Địa linh - Nhân kiệt”.
Giáo sư Ninh Viết Giao viết rằng: “Quả là một dòng sông văn hóa đã hình thành từ buổi ban mai của lịch sử, dòng sông văn hóa ấy cứ chảy và càng chảy càng có nhiều nguồn lạch tuôn vào, càng mênh mông dào dạt, càng rạng rỡ màu sắc,…để lại những bãi phù sa mỡ màng mà sách vở thường nhắc đến, đó là vùng Nghi Xuân với Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Tả Ao,….Đó là vùng Đức Thọ với Phan Đình Phùng, Phan Trọng Mưu, Lê Ninh. Đó là vùng Can Lộc với Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Văn Giao, đó là vùng Nam Đàn với Nguyễn Đức Đạt, Phan Bội Châu,…”
Xe chúng tôi về làng Hoàng Trù (làng Trùa hay làng Chùa) quê ngoại của Bác trước, sau đó mới di chuyển qua làng Kim Liên, quê nội.
 Hoàng Trù vốn là một trong bảy làng của xã Chung Cự ngày xưa: Hoàng trù, Kim Liên, Ngọc Đình, Văn Hội, Cương Kỵ, Tình Lý, Khoa Cự. Làng Hoàn Trù nằm ven tỉnh lộ số 49 Vinh – Nam Đàn – Thanh Chương – Đô Lương, ở về phía Tây, cách thành phố Vinh 13 km. Hoàng Trù nằm gần sông Lam, giữa một vùng sơn thủy ngoạn mục. Từ làng Hoàng Trù nhìn về phía Đông là núi Quyết của thành phố Vinh, phía Nam là dãy núi Hồng Lĩnh và núi Thành gắn liền với tên tuổi người anh hùng Nguyễn Biểu; phía tây là núi Hùng Sơn, còn gọi là Rú Đụn, và xa hơn là một màu xanh của dãy Thiên Nhẫn, đỉnh nhấp nhô như gươm bay, giáo dựng; phía Bắc là dãy núi Địa Huệ. Cảnh núi sông thật là đẹp, nhưng đất Hoàng Trù thời ấy vốn nghèo, nắng lên là hạn, mưa to mấy ngày là lụt. Dân Hoàng Trù vừa làm ruộng hai sương một nắng vừa phải làm nhiều nghề phụ khác, như nghề mộc, nghề rèn, dệt vải… mà cuộc sống vẫn gian nan[17].
Ông ngoại Bác, tức là cụ Hoàng Xuân Đường là một thầy đồ ở làng Hoàng Trù, vốn là một người có lòng nhân hậu. Trong một ngày đầu năm đi qua làng Sen chúc tết, thì gặp một cậu bé vừa chăn trâu vừa đọc sách trên đồng cỏ, ông cụ nhìn thấy mặt mày kháu khỉnh mới đến thì hỏi thăm thì cậu bé đối đáp rất trôi chảy. Cậu bé ấy chính là Nguyễn Sinh Sắc, do cha mẹ mất sớm nên cậu phải về ở chung với anh trai là Nguyễn Sinh Trợ và chị dâu, nhà anh cả cũng rất nghèo nên cậu phải ra đồng chăn trâu, cắt cỏ. Tuy nhà nghèo, nhưng Nguyễn Sinh Trợ rất thương em nên Sắc vẫn được cắp sách đến trường như bao đứa bạn. Vốn thông minh, ham học nên Nguyễn Sinh Sắc thường luôn mang theo sách bên mình để học. Cụ Hoàng Xuân Đường vốn không có con trai, lại nhìn thấy rõ cậu bé Sắc sau này sẽ là một người có tài nên cụ bàn với vợ là bà Nguyễn Thị Kép xin Nguyễn Xin Sắc về nuôi và được anh trai của Sắc đồng ý. Thế là Nguyễn Sinh Sắc về làng Hoàng Trù sống cùng với cha mẹ nuôi, và được học chữ của cụ Hoàng Xuân Đường. Không phụ lòng thương yêu của cha mẹ nuôi, Sắc học rất giỏi, chẳng bao lâu đã nổi tiếng cả một vùng. Thấy Sắc đến tuổi thành niên, cụ Hoàng Xuân Đường liền bàn với vợ gả con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Loan cho Sắc. Chẳng bao lâu lễ cưới của Nguyễn Sinh Sắc và Nguyễn Thị Loan được diễn ra, cụ Hoàng Xuân Đường mới dựng một ngôi nhà lá ba gian trên nền đất vườn của mình để cho vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ra ở riêng. Sau đó một năm (1884), bà Loan sinh người con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh. Bốn năm sau, bà sinh tiếp người con thứ hai là Nguyễn Sinh Khiêm (tức Nguyễn Tất Đạt). Và đến năm 1890 thì cậu bé Nguyễn Sinh Cung (tức Nguyễn Tất Thành) cất tiếng khóc trào đời.


Sinh viên lớp Tư tưởng Hồ Chí Minh K06 chụp ảnh lưu niệm
tại làng Hoàng Trù (quê ngoại Bác) ngày 21 – 1 – 2016.

          Từ lúc ra đời đến tuổi lên 5, Nguyễn Sinh Cung đã sống thời thơ ấu trong sự chăm sóc đầy tình yêu thương của ông bà Ngoại và cha mẹ, trong căn nhà nhỏ ba gian với cây mít đầu hồi, hàng cau và chiếc bể cạn trước sân. Là một cậu bé ham hiểu biết, Cung thích nghe chuyện và hay hỏi những điều lạ, từ các hiện tượng thiên nhiên cho đến những câu hát phường vải, những chuyện cổ tích mà bà ngoại và mẹ thường kể. Đó là thế giới tuổi thơ của cậu bé Cung trước khi rời quê nhà theo cha vào Huế.
          Sau này, khi bà Nguyễn Thị Thanh ra Hà Nội thăm Bác năm 1945, hai chị em Người vẫn ôn lại những kỷ niệm thời thơ ấu. Bà Thanh nhắc lại câu chuyện “cậu Côn nợ bà ngoại 17 roi”:
          “Nhà ngoại có giỗ. Năm đó cỗ bàn bà bày biện khá to. Tết lễ xong, đang chặt thịt vịt, thịt gà bày lên dĩa. Bà ngoại cho cậu Khiêm, cậu Côn mỗi cháu một cái chân vịt luộc. Cậu Khiêm chia cái chân vịt mình ra trêu em:
          - Chân giò anh to hơn.
          Cậu Côn tưởng thật, bỏ cái chân vị mình xuống, giành cái của anh. Cả hai anh em không chịu nhường nhau, kéo co mãi. Rốt cuộc, cậu Khiêm thả tay ra bất ngờ, cậu Côn ngã sóng soài, tay quờ phải chồng đĩa cổ của bà vỡ bảy chiếc. Cả hai anh em lúc đó xanh tái mặt, ngồi như tượng đá. Bà ngoại lấy cái roi cành dâu bằng chiếc đũa gọi hai cháu nằm trên giường. Bà cho cậu Khiêm tự nhận phần lỗi trước. Bà hỏi: “Làm anh mà không chịu nhường nhịn em thì chịu phạt mấy roi?”. Cậu Khiêm nhận: “Thưa bà, cháu xin nhận mười roi ạ”. Bà ngoại gật đầu: “Được. Cháu biết nhận lỗi mau lẹ, bà chỉ đánh năm roi, bà chỉ đánh năm roi, cho cháu chịu năm roi, nếu có phạm lỗi trở lại thì số roi phạm lỗi này sẽ nhân gấp ba lần”. Cậu Khiêm ngồi dậy vui vẻ ngay. Đến lượt bà cho cậu Côn tự nhận phần lỗi của mình. Côn thủ thỉ với bà: “Bà ơi, cháu có lỗi giành phần hơn với anh, cháu xin nhận mười roi như anh Khiêm, nhưng bà tạm đánh ba roi thôi, cho cháu nợ bảy roi ạ. Bà cố nén cười, hỏi lại: “cháu là em lại tranh giành phần hơn với anh, chính tay cháu đã làm vỡ bảy cái đĩa quý của bà. Lẽ ra cháu phải nhận số roi phạt nhiều hơn chứ sau lại ít hơn anh cháu?”.
          Cậu Côn nũng nịu: “Bà ơi. Chính anh cả đã khoe với cháu là chân vịt của anh ấy to hơn nên lỗi của cháu được nhẹ hơn ạ”. Bà ngoại phì cười. Cả nhà lúc đó cười ran lên. Bà ngoại đành phạt cậu Côn ba roi, cho nợ bảy roi…”[18]
          Năm 1895, Nguyễn Sinh Sắc lên đường ra Huế để tham gia kỳ thi hội, nhưng năm đó ông không đỗ. Sau đó, ông xin học ở trường Quốc Tử Giám và trở về Nghệ An đưa vợ và hai con trai ra ở cùng vào cuối năm 1895. Đây là lần đầu tiên Nguyễn Sinh Cung phải sống xa quê. Đầu năm 1901, sau khi bà Hoàng Thị Loan và đứa con trai út là Nguyễn Sinh Xin mất, ông Sắc lại đưa hai con trở về Nghệ An. Nhờ sự khích lệ của bà con trong họ, ngoài làng, Nguyễn Sinh Sắc một lần nữa khăn gói lai kinh, và lần này ông đỗ Phó bảng.
          Ở lại quê hương, Nguyễn Sinh Cung được bà ngoại gửi đi học chữ Hán với thầy giáo Hoàng Phan Quỳnh tại xóm Vang, làng Hữu Biệt, cách HoàngTrù 3 km, trong ngôi nhà thờ của họ Phan Trọng.
          Sau khi đỗ Phó bảng, vì muốn giữ nghĩa thủy tình chung với gia đình cụ Hoàng Xuân Đường đã có công giúp học hành, đỗ đạt, ông Nguyễn Sinh sắc ở đó một thời gian. Mấy tháng sau, theo tục lệ thời ấy, ông đưa ba người con về sống ở làng Kim Liên, quê nội.
          Làng Kim Liên hay còn gọi là làng Sen vì ở đây sen mọc rất nhiều, thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An cách thành phố Vinh đi theo quốc lộ 46 khoảng 15km.
Khi về làng Sen, ông Sắc được làng cấp đất công, xuất quỹ mua cho một ngôi nhà dựng trên mảnh vườn. Cũng nhân dịp này, ông làm lễ “vào làng” cho hai con trai, Sinh Khiêm với tên là Tất Đạt và Sinh Cung với tên mới là Tất Thành. Từ đấy, ông cùng các con sống trong ngôi nhà năm gian do dân xã và bà con hai bên họ nội ngoại góp công góp của làm cho. Mới hơn 10 tuổi, cậu bé Cung đã thành thạo việc nấu ăn, rửa bát, quét dọn nhà cửa, kiếm củi, hái rau, làm vườn, kể cả việc bắt cua, bắt cá và theo các bạn đi mót lúa, mót khoai trong những ngày mùa.
Theo lời thuyết minh của chị hướng dẫn viên, thì làng Kim Liên vinh dự được hai lần đón Bác về thăm, đó là giữa năm 1957 và đầu năm 1961. Qua tìm hiểu thêm, chúng tôi biết được trong những lần Bác về quê đã để lại nhiều câu chuyện cảm động cho người dân ở nơi đây.
Vào cuối năm 1961, Bác Hồ về thăm quê hương Nghệ An lần thứ 2 từ ngày 8 đến ngày 10 – 12 – 1961. Chiều ngày 8 – 12, sau khi làm việc với Tỉnh ủy Nghệ An, Bác đến thăm nhà ăn tập thể của cơ quan. Bác nhấc từng chiếc lồng bàn lên để thấy tận mắt khẩu phần ăn của cán bộ, nhân viên. Sau đó, Bác nhận lời mời ăn cơm tối cùng với các đồng chí lãnh đạo tỉnh. Bữa cơm hôm ấy, ngoài mấy món đơn giản, chị em phục vụ nhà bếp đã chọn gạo trắng để đãi Bác. Khi mọi người đã ngồi vào bàn ăn, đột nhiên Bác bảo một cán bộ đi cùng đưa gói cơm của đoàn ra. Đó là một gói cơm trắng độn ngô đỏ. Đồng chí phục vụ lấy dao cắt ra từng miếng, chia đều cho mọi người để cùng ăn với Bác. Lúc này các đồng chí Tỉnh ủy cứ nhìn nhau, không ai dám xới cơm trắng ra.
Hóa ra trước chuyến đi, bộ phận Văn phòng đã chuẩn bị cơm nắm cho Bác. Lúc này cả nước đang thực hiện ăn gạo độn màu để có đủ gạo chi dùng và dự trữ, Bác cũng thực hiện như bất cứ người dân nào. Một vị Chủ tịch nước mà giản dị đến mức không ngờ, nói luôn đi đôi với làm, làm một cách tự giác, đó là một trong nhiều đức tính quý báu của Bác, có sức lay động lòng người. Bữa cơm hôm đó, những người tham dự ai cũng đều xúc động, nghẹn ngào.
Sáng ngày 10 – 12 – 1961, Bác đến thăm Hợp tác xã cao cấp Vĩnh Thành, lá cờ đầu về phong trào trồng cây toàn miền Bắc. Lúc Bác đang nói chuyện với cán bộ, nhân dân thì nắng lên cao. Một cán bộ xã xuống nhà một người dân mượn cái ô lên che cho Bác. Vừa dương ô lên, Bác gạt ra và bảo: “Bác không phong kiến". Người chỉ xuống cả biển người phía dưới, cũng đang đứng dưới nắng. Ai nấy đều cảm động trước cách xử sự của Người.
Kết thúc buổi nói chuyện, Bác còn dặn: “Bà con, các cô, chú nên về làm bù, hôm nay Trung ương và Bác về làm mất của bà con một buổi  cày...”.
Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người luôn tâm niệm phương châm “lấy dân làm gốc”. Vì vậy mà mọi hành động, lời nói, Người đều hướng đến nhân dân, vì nhân dân[19].
Xế chiều, chúng tôi rời làng Kim Liên, tiếp tục cuộc hành trình của mình. Lần đầu tiên về thăm nhà Bác mà tôi thấy cảnh vật nơi đây sao quen thuộc, dường như đã đi lại nhiều lần. Con đường mòn nho nhỏ có hai hàng rào râm bụt ở hai bên, rực lên như lửa đỏ. Trước và sau nhà là những hàng cao đứng hiên ngang, bất khuất như tinh thần và sức mạnh của những người con xứ Nghệ. Mùa này tuy chưa có sen, nhưng gió từ ngoài đồng thoảng đưa hương thơm nhè nhẹ. Bất giác, những vần thơ của nhà thơ Tố Hữu lại vang vẳng đâu đây như có tình Người đang ôm ấp:
“Tôi trở về quê Bác, làng Sen,
Ơi hoa sen đẹp của bùn đen,
           Làng quen như thể quê chung vậy,
               Mấy dãy ao chua mảnh đất phèn…”

 [17] Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh (2002), Hồ Chí Minh Tiểu Sử, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 13 – 14.
 [18] Sơn Tùng (2005), Bác về, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr. 27 – 28. 

  

CHƯƠNG 5. PÁC PÓ – CAO BẰNG, NƠI ĐẦU NGUỒN CÁCH MẠNG


Ngày thứ năm, chúng tôi khởi hành đi Bắc Cạn sớm, thời tiết lúc này đã rất lạnh, tất cả mọi người đều phải mặc áo ấm và quấn khăn choàng. Buổi trưa, chúng tôi dùng cơm tại Nhà hàng Vạn Hoa – Ninh Bình. Tối đó, đoàn về nghỉ và ăn tối tại khách sạn Bắc Cạn khá muộn, do dọc đường ghé thăm Nhà tưởng niệm Bác Hồ ở ATK, Định Hóa –Thái Nguyên. Thời tiết lúc này rất lạnh, đồng thời do đi đường dài trong ngày nên nhiều bạn khá mệt, có bạn bị nôn trên xe. Sau khi ăn tối, chúng tôi nghỉ sớm để chuẩn bị cho cuộc hành trình khá vất vả trong ngày hôm sau.
Ngày thứ sáu, xe khởi hành lúc 6 giờ đi từ Bắc Cạn lên Cao Bằng. Nhiệt độ lúc này ở khoảng 7 – 8 độ C, xe phải chạy qua 5 ngọn đèo nhỏ, đường sườn dốc và đầy xìn đất. Có những độ cao mà xe đi qua, nhiệt độ chỉ còn 2 độ C. Chỉ cần ra khỏi xe là tay chân tê cứng.
Buổi trưa, chúng tôi đến Cao Bằng và dùng cơm tại khách sạn Á Đông. Do thời tiết lạnh nên các món ăn mới dọn ra chưa đầy 5 phút đã trở nên lạnh ngắt. Thậm chí đĩa thịt heo và cá chiên có mỡ đã bị thời tiết làm cho đông cứng lại. Do cơm nấu không đủ nên mọi người phải vừa ăn vừa đợi. Một số bạn đã thôi không ăn nữa. Sau khi dùng cơm, chúng tôi lên đường đi thăm khu di tích căn cứ cách mạng Pác Bó. Tại đây, chúng tôi đã ghé thăm núi Các Mác, suối Lênin, hang Cốc Bó và bàn làm việc bằng đá của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là nơi mà Người đã sống và làm việc trong những ngày đầu khi mới về nước năm 1941.
Trong những năm 1939 – 1941, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ ở châu Âu và nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới. Lúc này ở trong nước, phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ.
Sau nhiều năm trong tình trạng không hoạt động ở Liên Xô, cuối tháng 9-1938, được sử cho phép của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc được phép trở về phương Đông. Cuối năm 1938, Người dự chân ở miền nam Trung Quốc, bắt liên lạc với các đồng chí cán bộ của Đảng ta ở đây để chuẩn bị cho việc trở về Việt Nam. Lúc đầu, Người dự định sẽ về nước theo tuyến đường từ Côn Minh (Quảng Tây) xuống Lào Cai, nhưng sau đó con đường này bị tắc nên phải chuyển hướng xuống Cao Bằng.
Cuối năm 1940, khi chính thức quyết định chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên, Bác nói “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể công, lúc khó khăn có thể thủ”. Với những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo, với tầm nhìn chiến lược của một vị lãnh tụ, Người đã phát hiện ra Cao Bằng là nơi hội tụ đủ những điều cần thiết của một căn cứ địa cách mạng ở buổi ban đầu đó là thiên thời, địa lợi, nhân hoà và đáp ứng được nhu cầu mà công cuộc giải phóng dân tộc đã đặt ra.
Trước khi đặt chân về Tổ quốc, Người đã lưu lại làng Nậm Quang (Tĩnh Tây, Quảng Tây), tổ chức lớp học và trực tiếp huấn luyện chính trị cho 43 cán bộ cách mạng.
Chương trình huấn luyện gồm 3 phần, nhằm chuẩn bị cho việc thành lập mặt trận dân tộc rộng rãi ở nước ta:
- Tình hình thế giới và trong nước,
- Tổ chức đoàn thể quần chúng,
- Cách điều tra, tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện và đấu tranh cách mạng.
Ngay từ ngày đầu của lớp học, Người đã căn dặn học viên kỹ lưỡng về năm điều nên làm và năm điều nên tránh đối với dân:
Năm điều nên làm là:
1. Giúp dân những công việc thiết thực hằng ngày.
2. Tìm hiểu phong tục tập quán, nghiêm túc chấp hành điều kiêng.
3. Học tiếng địa phương, dạy hát, dạy chữ, gây cảm tình tốt với dân.
4. Tùy nơi, tùy lúc mà tuyên truyền cách mạng cho phù hợp.
5. Làm cho dân thấy mình là người đứng đắn, chăm công việc, trọng kỷ luật, do đó dân càng tin và giúp ta.
Năm điều nên tránh là:
1. Tránh việc làm thiệt hại đến dân, làm bẩn, làm hỏng nhà cửa ruộng vườn của dân.
2. Tránh năn nỉ mua hoặc mượn thứ gì cho bằng được.
3. Tránh sai lời hứa.
4. Tránh phạm đến phong tục, tập quán, tín ngưỡng của dân.
5. Tránh lộ bí mật.
Những bài học trên đã giúp những cán bộ tham gia buổi tập huấn nhận thức hơn về phương pháp công tác dân vận, có giá trị lớn lao trong việc đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng cho cách mạng sau này.
Sau hơn một tháng chuẩn bị, ngày 28 – 1 – 1941, Nguyễn Ái Quốc lên đường về nước. Khi bước tới cột mốc 108 trên biên giới Việt – Trung (thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), Người đứng lặng hồi lâu, xúc động.
Trong những ngày đầu về nước, Bác ở tại nhà ông Lý Quốc Súng. Đây là một gia đình người Việt gốc Hoa, sống cách hang Cốc Bó khoảng 100 m, sau đó vài ngày Bác đề nghị các đồng chí chuyển sang hang Cốc Bó. Tại đây, Người đã dùng than củi viết lên vách hang dòng chữ Hán để đánh dấu ngày Bác chuyển từ nhà ông Súng lên hang Cốc Bó “Nhất cửu tứ nhất niên nhị nguyệt bát nhật”, tức “ngày mùng 8 tháng 2 năm 1941”.
Theo chị hướng dẫn viên cho biết, hang Cốc Bó, thuộc địa phận làng Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng làm nơi ở và làm việc. Đây vốn là một nơi có địa thế hiểm trở, từ hang có thể ăn thông ra một con đường kín dẫn sang bên kia biên giới, có thể rút lui an toàn khi bị lộ. Theo cách giải thích của người dân nơi đây, Pác Bó có nghĩa là đầu nguồn nước. Nơi đây có dòng suối lớn, nước trong vắt, thoát ra từ hang núi đá lớn, Bác đặt tên là suối Lênin. Hang đá Cốc Bó, nơi Bác ở và làm việc nằm sâu dưới một ngọn núi đá cao, Bác gọi là núi Các Mác.
Câu chuyện ngày đầu tiên Bác về nước vẫn còn được lưu truyền rất phổ biến ở nơi đây. Số là, sau cái đêm đầu tiên nghỉ lại tại nhà một đồng bào Nùng có cảm tình với cách mạng; hôm sau Máy Lỳ (người chủ nhà) dẫn Bác và mấy đồng chí vừa về nước, theo một con đường nhỏ chạy ngoằn ngoèo qua rừng, lên một ngọn núi đá. Từ bờ suối trèo lên phải qua một đoạn dốc khá dài, cây cối rậm rạp thì mới lên tới cửa hang. Hang không rộng lắm, có hai ba ngách nhỏ. Trong một ngách có tảng đá khá to, bằng phẳng, sau này mọi người gác cây rồi rải lá lên làm giường nằm. Gần đấy, một con suối nhỏ chảy quanh các tảng đá, rồi đổ xuống phía dưới, tung những bọt nước trắng xóa. Máy Lỳ bảo: “Ở đây mọi người gọi hang này là Cốc Bó, có nghĩa là đầu nguồn!”.
Tại Pác Bó, Bác tự sắp xếp nơi nằm nghỉ, chỗ nấu cơm, nơi câu cá lúc nhàn rỗi, chỗ đun nước uống mà chè là lá cây ổi, kê bàn đá mộc mạc tự nhiên để dịch lịch sử cách mạng Liên Xô làm tài liệu huấn luyện cán bộ cách mạng:
                               “Sáng ra bờ suối tối vào hang,
                                Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.”

Theo lời của chị hướng dẫn viên thì cái bàn đá của Bác ở Pác Bó hiện tại là do phục dựng lại. Còn bàn thật thì đã được đưa vào trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ngoài Hà Nội.



Hang Cốc Bó – nơi Bác Hồ ở và làm việc khi mới nước.

Ở Pác Bó, lúc thì người dân gọi Bác là Già Thu, khi lại gọi là ông Ké. Ông Ké theo tiếng địa phương, chỉ người già, là cái tên mà bà con nơi đây gọi Bác với sự tôn kính nhưng lại hàm chứa sự gần gũi, mộc mạc, giản dị của Người. Ngày ấy, ông Ké, Già Thu trong bộ quần áo nâu của người dân tộc Nùng hòa mình vào với cuộc sống của đồng bào các dân tộc và cảnh vật nơi đây một cách tự nhiên.
Ở hang Cốc Bó hơn một tháng, Bác cho cán bộ chuyển cơ quan sang lán Khuổi Nặm. Tại lán Khuổi Nặm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại biểu của Quốc tế Cộng sản đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Tham dự Hội nghị có Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh và các đồng chí: Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt cùng một số đại biểu của Xứ  ủy Bắc kỳ, Trung kỳ và đại biểu tổ chức Đảng hoạt động ở nước ngoài. Xét về tính chất và quy mô, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 giống như một Đại hội toàn quốc của Đảng bởi Nghị quyết Trung ương đã vạch ra những chiến lược căn bản cho con đường cách mạng Việt Nam và có ý nghĩa quyết định đến vận mệnh của đất nước. Hội nghị xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương, cho nên tập trung vào nhiệm vụ: Đánh đuổi Pháp - Nhật làm cho xứ Đông Dương độc lập. Hội nghị khẳng định: Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được, Và quyết tâm chuyển hướng chiến lược cách mạng: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, là nhiệm vụ trước tiên, tạm gác nhiệm vụ cách mạng điền địa lại. Từ đó, Hội nghị đề ra chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy tên là “Việt Nam độc lập đồng minh” (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh), nhằm đoàn kết tập hợp mọi lực lượng yêu nước, chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc. Về phương pháp cách mạng, Hội nghị nhận định rằng: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị chỉ rõ, khi thời cơ đến: Với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
Sau Hội nghị một thời gian, ngày 6 – 6 – 1941, Bác tự tay thảo bức thư “Kính cáo đồng bào” ký tên Nguyễn Ái Quốc kêu gọi đồng bào, toàn dân đoàn kết đấu tranh đánh đuổi Pháp, Nhật giải phóng dân tộc. Từ Pác Bó, Người trực tiếp lãnh đạo, huấn luyện phong trào cách mạng của tỉnh Cao Bằng là điểm để rồi chỉ đạo, lãnh đạo phong trào cách mạng trong cả nước. Từ Cao Bằng, Người đã liên tiếp mở nhiều lớp huấn luyện về Mặt trận Việt Minh, về chương trình điều lệ Việt Minh và tổ chức các đoàn thể cứu quốc, Tỉnh ủy Cao Bằng được củng cố và nâng cao.
Tháng 10 – 1941, Người đã ra Chỉ thị cho Cao Bằng tổ chức đội vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh gồm 12 người, do đồng chí Lê Quảng Ba chỉ huy. Đội có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan lãnh đạo của Đảng, giữ vững giao thông liên lạc, giúp huấn luyện các đơn vị tự vệ khác. Đầu năm 1942, Đảng bộ Cao Bằng tổ chức lớp quân sự đầu tiên của tỉnh tại rừng Khuổi Nậm cho 40 học viên, học trong 1 tháng. Các học viên được huấn luyện theo chương trình do Nguyễn Ái Quốc biên soạn gồm: Tư tưởng chiến thuật, chiến lược, kỹ thuật chiến đấu và các kiến thức cơ bản sử dụng vũ khí. Thông qua các lớp huấn luyện này, Người lại chọn cử các học viên xuất sắc để gửi đi đào tạo dài hạn ở nước ngoài, nhằm phục vụ lâu dài cho sự nghiệp cách mạng. Tính đến tháng 10 – 1944, 70 cán bộ được chọn cử đi học nước ngoài, trong đó có Lê Quảng Ba, Trần Sơn Hùng, Bằng Giang, Thế An… Từ đây, phong trào cách mạng ngày càng lan rộng trong chiến khu Việt Bắc. Bên cạnh các lớp huấn luyện quân sự thì phong trào đấu tranh cách mạng của các tầng lớp khác như thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi cũng rất tích cực. Tấm gương thiếu niên Nông Văn Dền (tức Kim Đồng) đã thông minh, gan dạ, mưu trí để bảo vệ cơ sở hoạt động của Đảng và đã hy sinh anh dũng.
Cũng thời gian này, dù bận trăm công ngàn việc nhưng Bác vẫn làm nhiều bài thơ như: Việt Nam độc lập, Dân cày, Trẻ con, Công nhân, Bài ca Phụ nữ, Ca binh lính…; viết tác phẩm Cách đánh du kích, gồm 13 chương, nội dung mỗi chương nêu ngắn gọn, dễ hiểu để cán bộ, nhân dân nhận thức đúng và thực hiện được…
Từ Pác Bó, Người đã đi nhiều nơi ở Cao Bằng chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 12 – 1944, Người ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay).
Tháng 5 – 1945, Bác Hồ rời Pác Bó vể Tân Trào (Tuyên Quang). Người chọn Tân Trào làm trung tâm chỉ đạo cách mạng cả nước. Ngày 4 – 6 – 1945, theo chỉ thị của Người Khu giải phóng Việt Bắc gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận như Bác Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn cứ địa chính của cách mạng và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Bác rời Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Cuối năm 1946, khi cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai nổ ra, Người lại một lần nữa trở về Việt Bắc.
Tháng 7 – 1950 theo quyết định của Trung ương Đảng, Bộ Chỉ huy và Đảng uỷ mặt trận Biên giới được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên thường vụ Trung ương Đảng trực tiếp làm Chỉ huy kiêm Bí thư, đồng chí Trần Đăng Ninh, Uỷ viên Trung ương Đảng phụ trách hậu cần chiến dịch. Đại bản doanh của Sở chỉ huy chiến dịch đặt tại làng Tả Phầy Tẩư huyện Quảng Hoà (nay là huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng). Ngày 12 – 8 – 1950, Trung ương Đảng chỉ thị cho cấp uỷ Đảng và nói rõ tầm quan trọng của chiến dịch biên giới, đồng thời nhắc nhở các địa phương toàn quốc phối hợp kiềm chế và tiêu hao sinh lực địch khi chúng tiếp việc cho Đông Khê. Trong bức thư gửi cho các chiến sỹ ở biên giới Hồ Chủ Tịch đã nhắc nhở “Trong cuộc chiến đấu này ta chỉ được đánh thắng, không cho đánh bại”. Lúc này Cao Bằng đã trở thành chiến trường chính của chiến dịch. Đảng bộ tỉnh Cao Bằng nói riêng và cả nước nói chung đã chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch ngay từ những ngày đầu năm 1950 với khẩu hiệu tất cả cho chiến dịch toàn thắng.
Cuối tháng 8 – 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên Cao Bằng để cùng Bộ chỉ huy trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Đêm 16 – 9 – 1950, quân ta nổ súng đánh đồn Đông Khê cũng là lúc Bác Hồ ra sở chỉ huy tiền phương, trực tiếp quan sát đồn Đông Khê, điều đó đã gây xúc động mạnh mẽ trong lòng cán bộ chiến sỹ, đặc biệt là với nhân dân các dân tộc Cao Bằng, khắp mặt trận nô nức thi đua lập thành công.
Đầu xuân năm 1961, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng, và Người đã lưu bút tích của mình tại hang Cốc Pó. Bài thơ như sau:
“Hai mươi năm trước ở hang này,
              Đảng vạch con đường đánh Nhật – Tây.
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu
  Non sông gấm vóc có ngày nay”
Trong buổi nói chuyện với các cán bộ lãnh đạo của tỉnh Cao Bằng, Bác hỏi: - Cao Bằng giờ có dám phấn đấu để không ai cao bằng mình không?
Đồng chí Hồng Kỳ, Bí thư Tỉnh ủy, đứng dậy nhìn các cộng sự của mình, rồi thưa rằng:
- Dạ, phong trào cả tỉnh đang nhiều mặt yếu, Bác dạy thế cao quá, Cao Bằng khó lòng đạt được.
Sau vài giây suy nghĩ, Bác hỏi:
- Vậy thì, Cao Bằng chí ít cũng phải phấn đấu để cao bằng người ta.
Đó là yêu cầu tối thiểu, đồng chí Hồng Kỳ thay mặt Đảng bộ hứa sẽ quyết tâm thực hiện bằng được lời Bác dạy”.
Trong cuộc hội thảo Bác Hồ với Cao Bằng, tổ chức tại tỉnh Cao Bằng nhân kỷ niệm 70 năm Bác Hồ về nước (1911 – 2011), ông Trần Viết Hoàn, nguyên Giám đốc Khu di tích lịch sử Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch đã đưa ra một trang giấy nhỏ, là bút tích việc chuẩn bị bài nói mà Bác Hồ đã chuẩn bị. Nội dung đoạn bút tích đó như sau:
Chúc đồng bào pi mấư  đây lai (tiếng Tày nghĩa là: Chúc đồng bào năm mới nhiều tốt đẹp).
Cao Bằng phải cao bằng những tỉnh tốt nhất, tốt nhất là Cao Bằng vượt mức cao không ai bằng. Đó là nỗi niềm, là lòng mong ước, là lời dạy của Bác Hồ đối với nhân dân Cao Bằng thật dễ nhớ, dễ thuộc, dễ khắc sâu, bởi ý nghĩa sâu xa, bởi lối chơi chữ biến ảo: Chữ Cao Bằng, danh từ chỉ địa danh đổi thành tính từ so sánh, cách nói này của Bác Hồ vừa dân dã vừa linh hoạt, ít chữ mà nội dung tải được lại rất nhiều so với cả một đoạn dài được chuẩn bị rất bài bản mà Bác Hồ đọc trong buổi mít tinh đón Người tại sân vận động thị xã Cao Bằng, năm 1961: “Bác mong tỉnh Cao Bằng sớm trở thành một trong những tỉnh gương mẫu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như trước đây Cao Bằng là tỉnh gương mẫu trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc”[20].
Để tưởng nhớ công ơn to lớn của Người, năm 2010, Cao Bằng đã xây dựng Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt Pác Bó và được khánh thành, đưa vào sử dụng từ tháng 5 – 2011, đúng dịp Kỷ niệm lần thứ 121 ngày sinh của Người. Công trình mang tầm vóc thế kỷ, thể hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc của người con đất Việt nói chung và nhân dân Cao Bằng nói riêng hướng về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Công trình mang dáng dấp của ngôi nhà sàn truyền thống, với thiết kế nội, ngoại thất đẹp, trang trọng. Mỗi đường nét đều truyền tải những ý nghĩa văn hoá, lịch sử sâu sắc. Sự kết hợp khéo léo giữa nghệ thuật điêu khắc, họa tiết và hoa văn đã thể hiện tinh hoa dân tộc, tạo cho người xem cảm giác bình dị, gần gũi mà trang nghiêm, tôn kính[21].
Pác Bó ngày nay trở thành một địa danh thiêng liêng, Khu di tích Quốc gia đặc biệt, là niềm tự hào đối với mỗi người dân Việt Nam. Nơi núi rừng Pác Bó, ở đâu cũng có những điểm ghi dấu bước chân Bác từng đi qua, nơi Bác từng sinh hoạt và làm việc, cuộc sống bình dị với “cháo bẹ, rau măng”, “sáng ra bờ suối tối vào hang”, quãng thời gian hoạt động cách mạng gian khổ mà hào hùng, lạc quan của Người.
Chúng tôi rài Pác Bó trong khi trời tờ mờ tối, tiếng suối Lênin vẫn reo như đang vẫy chào chúng tôi, lòng núi Các Mác bâng khuân như đang nhớ Bác những ngày ở chiến khu Việt Bắc. Tôi lấy chai múc một ít nước suối Lênin mang về làm kỷ niệm. Tôi ngồi trên xe mà vẫn nghe bên tai tiếng suối reo lên tí tách. Bất chợt tôi nhớ đến bài thơ “Cảnh khuya” của Bác:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
  Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
      Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ,
                                       Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”


[20] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 49.







CHƯƠNG 6. BÁC HỒ “SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ”

         
Thắm thoắt, cuộc hành trình của chúng tôi đã đến ngày thứ mười. Sáng hôm ấy trời rét như cắt da, cắt thịt. Gió Bắc, mưa phùn tranh nhau lùa về Thủ đô mang theo nỗi lo của nhưng người dân xứ Bắc. Mấy hôm nay, đài cứ đưa tin thời tiết ngoài Bắc vẫn còn đang rét đậm rét hại, ở vùng trung du và miền núi phía Bắc rất nhiều trâu bò bị chết vì rét, nhiều ruộng nương hoa màu cũng đứng trước tình thế tan hoang.
Chúng tôi ăn vội hộp xôi mà các anh hướng dẫn đoàn đưa cho và đứng dưới một mái hiên đợi đến giờ làm lễ chào cờ trước Lăng Bác. Tuy rét run người nhưng trong lòng ai cũng háo hức. Có lẽ do sáng hôm đó trời mưa nên buổi lễ chào cờ không được diễn ra trang trọng như những ngày thường, trên quản trường chỉ có đoàn chúng tôi và các chiến sĩ bảo vệ Bác lúc nào cũng đứng trang nghiêm. Trong bổi lễ không có nghi thức kéo cờ, không khí vắng tanh, duy chỉ có tiếng nhạc lễ là luôn hào hùng và dồn dập như những đoàn quân ngày nào tiến vào giải phóng thủ đô và đón Bác về lần thứ hai sau khi Điện Biên toàn thắng.
          Sau khi lễ chào cờ kết thúc, chúng tôi được đưa vào phòng chiếu phim và được xem những thước phim về những giờ phút cuối đời của Bác. Mặc dù những phim này chúng tôi đã được xem trên mạng nhiều lần, nhưng lần này như có một sức mạnh nào đó thúc đẩy chúng tôi, không ai kìm nén được cảm xúc, nhiều bạn xem phim mà nước mắt cứ chảy dài.
          Hà nội sáng hôm nay mưa nhiều như những ngày Bác mất, những ngày mà toàn thể dân tộc Việt Nam phải hứng chịu một nỗi đau chưa từng có “trời tuôn nước mắt người tuôn mưa”, miền Nam thân yêu đang chờ đợi từng ngày da diết mong Bác vào thăm nhưng không còn cơ hội nữa.

          Đi lặng lẽ dưới trời mưa, đoàn chúng tôi từng bước lặng thầm vào lăng viếng Bác. Bác nằm đó, gương mặt vẫn hồng hào, trái tim Người vẫn đập và hướng về miền thân yêu mà Bác chưa một lần vào thăm được, “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà, miền Nam mong Bác nỗi mong cha”. Quảng trường Ba Đình ngày nào con vang vọng tiếng Bác dậy non sông giờ đây bỗng dưng êm đềm và lặng lẽ.


Quảng trường Ba Đình sáng sớm ngày 26 – 1 – 2016.

Cách đây hơn 70 năm, ngày 25 – 8 – 1945, Hà Nội lần đầu tiên đón Bác. Người cùng với Chính phủ lâm thời trở về từ căn cứ địa Việt Bắc. Khi đó cách mạng tháng Tám đã thành công trên cả nước. Người đến ở trên căn gác thứ hai của ngôi nhà số 48 phố Hàng Ngang. Tại đây, Người đã viết bản Tuyên ngôn độc lập, một áng văn hùng ca bất diệt của dân tộc Việt Nam.
          Ngày 2 – 9 – 2015, thủ đô Hà Nội tràn ngập cờ và hoa, ai nấy đều vui mừng vì đây không chỉ là ngày vui của nhân dân Việt Nam mà còn là ngày vui của các dân tộc yêu chuộng hòa bình và tiến bộ trên thế giới. Chiều hôm ấy, một cuộc mít tinh lớn đã diễn ra tại quản trường Ba Đình, hàng vạn người dân trong thủ đô và các tỉnh lân cận đổ về quảng trường để dự lễ chào cờ và nghe Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập. Khi lễ chào cờ vừa kết thúc, từ trên lễ đài vang lên một giọng Quảng Bình rất trang nghiêm trân trọng giới thiệu cụ Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh lên đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử của nước nhà. Lập tức biển người xôn xao hẳn lên rồi những tiếng reo như bùng nổ. Cả một rừng cánh tay cùng giơ lên, múa lên trong muôn ngàn tiếng hô vang cuồng nhiệt: “Ủng hộ Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh!”, “Chủ tịch Hồ Chí Minh vạn tuế”. Ai cũng muốn nhìn cho rõ mặt vị chủ tịch đánh kính. Trên lễ đài, Bác Hồ đang tiến đến trước micro. Tất cả đều vô cùng ngạc nhiên, bởi người đứng đầu cả dân tộc Việt Nam không phải là một vị oai phong, cao lớn hùng dũng, hoặc sang trọng nào, mà là một vị trạc tuổi năm mươi nhăm, mảnh mai, vô cùng giản dị với bộ ka ki màu vàng nhạt, bốn túi, cô cao đầu trần. Trên gương mặt hơi gầy và như còn thoáng xanh màu sốt rét của rừng núi nổi lên một vầng trán rộng mênh mông. Và nhất là đôi mắt – một đôi mắt sáng như sao– đôi mắt của một trí tuệ siêu việt và một trái tim bao la có thể nhìn ra cả năm châu bốn biển. Và bộ râu mềm mại lơ thơ trên mép hết sức Việt Nam và Á Đông. Gương mặt ấy, dáng vẻ, phong thái ấy, dù chưa nói câu gì, Bác đã gần như ngày lập tức chiếm được tất cả tình cảm, niềm tin yêu lớn, thậm chí cả tâm hồn của hàng triệu người Việt đang hướng về Người.
          Bác ra hiệu cho hết thảy đồng bào đều im lặng và bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn độc lập:
          - Hỡi đồng bào cả nước!
““Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ... Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”…Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
Cả biển người lặng yên lắng nghe và như xúc động theo từng lời của Bác. Trên lễ đài, vẫn với giọng nói hết sức ấm áp, vang sáng và đầy xúc cảm, Bác đọc qua đoạn viết về các tội ác của Pháp và Nhật và đọc tới khác vọng độc lập, tự do của dân tộc ta với cuộc Cách mạng tháng Tám vừa mới thành công. Rồi đột nhiên, ngừng lại, ngước cặp mắt sáng tuyệt vời, Bác cất tiếng ân cần hỏi:
- Tôi nói đồng bào nghe rõ không?
Lập tức cả biển người như bùng lên reo vang:
- Có! Có ạ!, Có, có ạ!...
Cuối bản Tuyên ngôn, thay mặt cho toàn thể dân tộc Việt Nam, Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do, độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Khi Bác vừa đọc hết bản Tuyên ngôn Độc lập, cả biển người như lại nổi sóng với những tiếng hô vang dội, dường như không dứt: “Hồ Chủ tịch muôn năm!”, “Việt Nam Dân chủ cộng hòa muôn năm!”…Và nhiều người không thể không thốt lên với nhau: “Áng văn lập quốc vĩ đại này sẽ mãi mãi là hành trang tinh thần của dân tộc Việt Nam trên con đường giữ gìn độc lập – tự do và xây dựng phát triển đất nước!”[22].
Sau buổi lễ Quốc khánh, Bác cùng với Chính phủ ta đã kiên cường dẫn dắt đất nước và nhân dân bắt tay vào công việc xây dựng chế độ mới. Tình thế nước ta khi ấy như “ngàn cân treo treo sợi tóc”. Trong buổi họp đầu tiên với Chính phủ, Người đã nêu lên những vấn đề cấp bách của nước ta:
- Hiện nay những vấn đề gì là vấn đề cấp bách hơn cả. Theo ý tôi, có sáu vấn đề: 
Một là, nhân dân đang đói. Ngoài những kho chứa thóc mà Pháp, Nhật vơ vét của nhân dân, bọn Nhật, Pháp còn bắt đồng bào chúng ta giảm bớt diện tích cấy lúa để trồng thầu dầu, đay và những thứ cây khác cần thiết cho cuộc chiến tranh của chúng. Hơn nữa, chúng ta còn tìm thấy hai kế hoạch của bọn cầm quyền Pháp với mục đích gây nạn đói, để ngăn trở phong trào yêu nước và bắt buộc đồng bào chúng ta phải làm việc như nô lệ. 
Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói vì chính sách độc ác này. Vừa rồi nạn lụt đã phá hoại tám tỉnh sản xuất lúa gạo. Điều đó càng làm cho tình hình trầm trọng hơn. Những người thoát chết đói nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống.  Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dị ch tăng gia sản xuất.  Trong khi chờ đợi ngô, khoai và những thứ lương thực phụ khác, phải ba bốn tháng mới có, tôi đề nghị mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo. 
Vấn đề thứ hai, nạn dốt - Là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ.  Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ. 
Vấn đề thứ ba - Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v.. 
Vấn đề thứ tư - Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hoá dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập.  Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính. 
Vấn đề thứ năm - Thuế thân, thuế chợ, thuế đò, là một lối bóc lột vô nhân đạo. Tôi đề nghị bỏ ngay ba thứ thuế ấy. Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm hút thuốc phiện. 
Vấn đề thứ sáu - Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết[23]. 
Để diệt giặc đói, Người kêu gọi nhân dân tăng gia sản xuất và thực hiện “ngày đồng tâm”, nhịn ăn mỗi ngày một bữa, mỗi bữa một bơ, đem gạo đó để cứu giúp những người đang đói. Và Người thực hành trước để làm gương. Câu chuyện Bác Hồ nhịn ăn khiến nhiều người cảm động không cầm được nước mắt. Các cô chú phục vụ thấy Bác thấy Bác nhịn ăn ngày càng gầy yếu xanh xao thì thương Bác lắm, mới khuyên Bác nhịn ăn ít buổi lại để giữ gìn sức khỏe. Bác bảo: Bác kêu gọi mọi người nhịn ăn mà các cô chú bảo Bác cứ ăn thì còn làm gương cho ai được nữa!
Các lớp bình dân học vụ lần lượt được dựng lên. Đêm đến, với ngọn đèn dầu, đèn đuốc trên những con đường mòn, mọi người nô nức đến trường học chữ quốc ngữ trong niềm vui nước nhà được tự do, độc lập. Ngày 6 – 1 – 1946, nhân dân trên khắp cả nước nô nức đi bầu cử, lần đầu tiên trong lịch sử, người dân Việt Nam được cầm lá phiếu làm chủ để chọn ra những người tài đức có thể đứng ra lãnh đạo đất nước mình.
Chẳng bao lâu sau, giặc đói, giặc dốt bị đẩy lùi. Chính quyền cách mạng được giữ vững, nhân dân ngày càng vững tin và Chính phủ và Hồ Chủ tịch.
Khi nước ta mới vừa giành được độc lập, 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch đã tràn vào miền Bắc nước ta dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào giải pháp quân đội Nhật. Ở phía Nam, quân Anh đổ bộ lên đất nước ta mở đường cho thực dân Pháp xâm lược trở lại. Ngày 23 – 9 – 1945, được sự giúp đỡ của Anh, quân đội Pháp đã nổ súng tái chiếm Sài Gòn. Các thế lực phản động lại nổi lên chống phá cách mạng, khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Với chính sách ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “thêm bạn bớt thù”, Bác Hồ đã thay mặt Chính phủ ta lần lượt ký với Pháp bản Hiệp ước Sơ bộ ngày 6 – 3 và bản Tạm ước Việt – Pháp ngày 14 – 9 – 1946. Nhờ thế, đã đẩy lùi được quân Tưởng về nước và hòa hoãn với thực dân Pháp để có thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi.
Tuy nhiên, “chúng ta càng nhượng bộ, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Ngày 19 – 12 – 1946, thực dân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi giành quyền trị an ở Hà Nội. Nếu ta không đồng ý, trong vòng 24 giờ, chúng sẽ tấn công. Trước tình hình đó, Bác cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng ta họp ở làng Vạn Phúc, Hà Đông quyết định phát động toàn quốc kháng chiến.
Trước khi kháng chiến nổ ra, Bác có gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp và hỏi:
- Nếu địch mở rộng chiến tranh trên miền Bắc, Hà Nội có thể giữ được bao lâu?
Đồng chí Võ Nguyên Giáp thưa:
- Thưa Bác, có thể giữ được một tháng.
Bác lại hỏi:
- Các thành phố khác thì sao?
- Các thành phố khác có thể giữ được lâu hơn.
- Còn vùng nông thôn?
- Thưa Bác, Vùng nông thôn dĩ nhiên ta giữ vững được.
Bác trầm ngâm suy nghĩ một lúc, lim dim đôi mắt. Sau đó, Người ngẩn đầu lên, hơi buồn nhưng cương quyết, rồi nói:
- Thôi được, chúng ta trở lại Tân Trào.
Vào lúc 20 giờ 3 phút ngày 19 – 12 – 1946, tiếng súng kháng chiến bắt đầu nổ ra trên cả nước. Đêm 20 – 12, trong lúc những cuộc chiến đấu diễn ra trên khắp phố xá Hà Nội thì đài “Tiếng nói Việt Nam”, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Người vang lên trên khắp cả nước:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”[24]
Cuộc kháng chiến của những người con “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” giữa lòng Hà Nội đã kéo dài suốt 63 ngày đêm. Để giữ vững lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài, Bác cùng cơ quan lãnh đạo phải rời khỏi thủ đô lên an toàn khu trên Việt Bắc. Và mãi đến 8 năm sau Người mới có thể trở về như lời hẹn ước.
Sau khi vào lăng viếng Bác, chúng tôi được chị hướng dẫn viên tại khu di tích dẫn qua trước cổng Phủ Chủ tịch. Theo quy định, chúng tôi chỉ được đứng trước cổng tham quan và nghe hướng dẫn chứ không được vào trong phủ. Theo lời chị hướng dẫn viên, vào ngày 10 – 10 – 1954, Hà Nội được giải phóng, Bác cùng Chính phủ, Trung ương Đảng từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô sau chín năm kháng chiến anh dũng và gian khổ. Với lòng kính yêu lãnh tụ, với mong muốn đảm bảo điều kiện làm việc tốt nhất cho Bác và đáp ứng được những nghi lễ ngoại giao khi Người đón tiếp khách trong nước, quốc tế, các đồng chí trong Trung ương Đảng, Chính phủ đã mời Người về ở và làm việc tại Phủ Toàn quyền xưa, nhưng Bác đã khước từ. Bác nói: “Trước kia đây là Phủ Toàn quyền, nhưng việc xây dựng nên công trình kiến trúc này là bàn tay của những người thợ Việt Nam. Bây giờ nhân dân được tự do, đất nước được độc lập, quyền làm chủ toà nhà phải thuộc về nhân dân”. Người đề nghị sử dụng toà nhà làm nơi làm việc và tiếp khách của Chính phủ và Nhà nước Việt Nam, còn Bác thì dọn ra ở ngôi nhà của người phục vụ toàn quyền Đông Dương trước đó. Từ đó toà nhà được gọi là Phủ Chủ tịch. Nơi đây đã diễn ra những hoạt động đối nội, đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cương vị người đứng đầu Đảng, đứng đầu Nhà nước. Căn phòng sang trọng nhất – nơi có 5 vòm cửa lớn ở chính diện toà nhà là nơi diễn ra những sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước.


Phủ Chủ tịch sáng ngày 26 – 1 – 2016.

Sau đó chúng tôi đến tham quan các di tích chính là nhà 54, nhà sàn, nhà 67, phòng trưng bày 2 chiếc ôtô và các di tích ngoài trời là đường xoài, vườn cây và ao cá của Bác Hồ. Do trời mưa, hướng dẫn viên thì mang dù che, còn người tham quan thì mặc áo mưa, bên ngoài trời rét mà âm thanh lại không được tốt, nên hầu như các địa điểm chúng tôi chỉ lướt qua, sau đó mới ra ngoài mua thêm sách đọc để tìm hiểu thêm. Chỉ chỉ còn nhớ khi đi qua đường xoài vào nhà sàn của Bác, chị hướng dẫn viên có đọc lên mấy dòng thơ của nhà thơ Tố Hữu mà chúng tôi được học từ hồi lớp 5:
“Anh dắt em vào cõi Bác xưa
            Đường xoài hoa trắng nắng đu đưa
Có hồ nước lặng soi tăm cá
           Có bưởi cam thơm mát bóng dừa”
Theo như thông tin mà tôi tìm được trên trang web của Ban quản lý khu di tích và những câu chuyện mà chúng tôi đã được các thầy cô kể lại, thì ngôi nhà số 54 được Bác Hồ đến ở từ tháng 12 – 1954, vì vậy ngôi nhà được gọi tắt là Nhà 54. Đến tháng 5 – 1958 thì Bác chuyển sang ở Nhà sàn ở phía bên kia bờ ao cá, nhưng hàng ngày Người vẫn trở về nơi đây để dùng cơm và khám sức khoẻ định kỳ. Bởi vậy Nhà 54 là nơi gắn bó với cuộc sống đời thường của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 15 năm cuối cùng của cuộc đời.
Nhà 54 chỉ có ba phòng nhỏ, phía giáp ao là phòng làm việc và cũng là nơi Người tiếp khách, ở giữa là phòng ăn, trong cùng là phòng ngủ. Mọi đồ dùng sinh hoạt của Người ở đây rất đơn giản nhưng được xếp đặt ngăn nắp, khoa học.
Nhưng vì do thiết kế trần nhà bằng phẳng nên mùa hè thì rất nóng, mùa đông thì rất lạnh, sợ ảnh hưởng đến sức khỏe của Bác nên Bộ Chính trị quyết định dựng một ngôi nhà sàn ở phía trước ao cá cho Bác ở.
Thời gian thi công nhà sàn là thời gian Bác đi công tác nước ngoài trong vòng một tháng. Trước khi đi Bác cho gọi kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đến căn dặn là phải tiết kiệm, không làm quá to, không dùng gỗ tốt. Tầng dưới nhà sàn sẽ là nơi dùng để họp Bộ Chính trị và tiếp khách quí. Xung quanh làm một hàng ghế ximăng sát tường để dành cho các cháu thiếu nhi mỗi lần Bác mời vào vui chơi với Bác.
Sau hơn bốn năm sống và làm việc ở ngôi nhà người thợ điện, ngày 18 – 5 – 1958 Bác chuyển sang ở ngôi nhà sàn, cũng ở ngay trong khuôn viên Phủ chủ tịch.
Ngôi nhà có hai tầng. Từ tầng một lên tầng hai bằng chiếc cầu thang gỗ 14 bậc. Tầng hai được ngăn làm hai phòng, mỗi phòng khoảng 9 m2, một phòng làm việc, một phòng ngủ. Trong phòng làm việc có 1 bàn, 1 ghế và 1 giá sách sát tường chia làm nhiều ô để đựng tài liệu và sách báo. Phòng ngủ có một chiếc giường rộng 1,2 m. Bốn góc giường cắm bốn cọc gỗ để mắc màn. Phía đầu giường có hai chiếc gối, một để gối ngủ, còn một để chồng lên gối ngủ cho đầu cao lên mỗi khi Bác đọc sách. Bên cạnh gối là chiếc quạt lá cọ. Bác bảo là để dự phòng khi mất điện hoặc khi đi ra ngoài. Hơn nữa, Bác nói thỉnh thoảng cũng cần phải cho quạt điện nghỉ để dùng được lâu.
Ngôi nhà sàn của Bác đã trở thành một di tích lịch sử quí hiếm, một tài sản tinh thần vô giá đối với các thế hệ mai sau. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Cái nhà sàn của Bác vẻn vẹn chỉ có vài ba phòng và trong lúc tâm hồn của Bác lộng gió thời đại thì cái nhà nhỏ đó luôn luôn lộng gió và ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn. Một đời sống như vậy thanh bạch và tao nhã biết bao”[25].
Còn riêng ngôi nhà 67 – được gọi tên theo năm công trình xây dựng và hoàn thành (1967) được xây dựng theo Chỉ thị của Bộ Chính trị bố trí nơi làm việc cho Bác để phòng tránh chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Bác đã ở làm việc và đi xa từ đây, để lại bao tiếc thương cho nhân dân cả nước. Ngôi nhà này cũng đơn sơ giản dị như bao ngôi nhà khác ẩn mình dưới những tán cây cổ thụ trong Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Căn nhà hoàn thành ngày 20 – 7 – 1967, một thời gian sau do chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ diễn ra ngày một ác liệt, Bác mới đồng ý chuyển xuống làm việc ở đây. Nơi đây cũng là nơi Bác họp với Bộ Chính trị bàn và ra những quyết định quan trọng liên quan đến vấn đề xây dựng kinh tế ở miền Bắc, đường lối ngoại giao, đường lối quân sự cho hai miền.
Đây cũng là nơi Bác tiếp các đồng chí lãnh đạo ở Trung ương Cục miền Nam, ở Quân khu V ra họp và làm việc như: Đồng chí Nguyễn Văn Linh, đồng chí Võ Chí Công… Buổi họp đầu tiên của Bộ Chính trị tổ chức tại đây là nghe đồng chí Lê Đức Thọ báo cáo về diễn biến của Hội nghị Pa-ri, đồng thời chuyển một số bức họa của các bạn người Pháp gửi tặng Bác. Có lần Bộ Chính trị đang họp thì máy bay địch đến bắn phá Hà Nội, Bác và đồng chí Văn Tiến Dũng gọi điện thoại động viên các đơn vị quân đội và dân quân tự vệ tại Hà Nội đã bắn rơi máy bay Mỹ…
Từ ngày 25 – 8 – 1969, nhà 67 trở thành nơi chăm sóc, chữa bệnh cho Người. Và cũng chính tại nơi đây đã diễn ra những câu chuyện vô cùng xúc động về những giờ phút cuối đời của Bác.
Ngày 12 – 8 – 1969, ngoài trời có mưa dông và gió lớn, nhưng khi hay tin phái đoàn ta do đồng chí Lê Đức Thọ - Uỷ viên Bộ Chính trị, trưởng ban Tổ chức Trung ương làm trưởng đoàn từ cuộc đàm phán Pari trở về đang ở nhà khách của Trung ương tại Hồ Tây, Bác đã chủ động đến thăm và làm việc. Đêm hôm đó, Bác lên cơn sốt và ho, những ngày sau đó Bác ho nhiều hơn, sốt nặng hơn. Nhưng Bác vẫn lên, xuống nhà sàn làm việc. Theo đề nghị của bác sĩ, ngày 18 – 8 Bác Hồ không làm việc ở nhà sàn gỗ nữa. Người xuống ở và làm việc tại ngôi nhà 67. Kể từ hôm đó, những ngày quy luật của cuộc đời đến với Bác Hồ ở nơi đây[26].
Ngày 23 – 8 phải dùng pê-nê-xi-lin tiêm cho Bác. Khoảng 9 giờ tối hôm ấy, Bác thấy đau trong lồng ngực. Các bác sĩ vội đình chỉ tiêm và làm điên tim ngay, thấy rõ rệt có phản ứng nhồi máu cơ tim thành sau tim. Sau khi hội chuẩn, các bác sĩ lại tiêm cho bác. Đến ngày 28 – 8, tim Bác bắt đầu có dấu hiệu loạn nhịp đập và rối loạn phần truyền nhĩ thất. Trong những ngày đêm căng thẳng ấy, ngày nào các đồng chí trong Bộ Chính trị cũng đến thăm và báo cáo tình hình chiến sự ở hai miền vơi Bác. Mỗi khi tỉnh dậy, Bác đều hỏi: “chiến trường miền Nam hôm nay thắng ở đâu?
Chiều ngày 30 – 8, đồng chí Phạm Văn Đồng sang, Bác còn hỏi: “Các chú chuẩn bị lễ Quốc khánh tới đâu rồi?”. Nghe đồng chí Phạm Văn Đồng báo cáo, Bác dặn: “Các chú nhớ bắn pháo hoa mừng chiến thắng để động viên tinh thần chiến đấu của nhân dân”.
 Rồi Bác lại hỏi lũ sông Hồng đã rút chưa? Cần phải lo cứu dân nếu đê vỡ. Thủ tướng không dám giấu Bác nên báo cáo là nước lũ chưa rút hết như Hội đồng Chính phủ đã có những cố gắng để giúp dân và đề phòng bất trắc. Rồi Thủ tướng mới mạnh dạn ngỏ ý mời Bác lên an toàn khu ở Việt Bắc để tĩnh dưỡng và để phòng lũ lụt. Bác không đồng ý, Bác nói là Bác không thể bỏ dân mà đi.
Sáng ngày 1 – 9, nghe tin bộ đội tên lửa Hà Nội bắn rơi một máy bay không người lái của Mỹ vào ngày 30 – 8 nên Bác bảo Văn phòng gửi tặng lẵng hoa cho đơn vị vừa lập công. Đó là lẵng hoa cuối cùng của Bác mà các chiến sĩ tên lửa Sư đoàn 367 được đón nhận. Chiều hôm ấy, Bác thèm ăn một Bác cháo, các đồng chí phục vụ vội nấu cho Bác một tô cháo thật ngon. Thấy Bác ăn hết, ai cũng mừng. Đến tối, khi đồng chí Phạm Văn Đồng đến thăm, Bác nói là ngày mai làm Lễ Quốc khánh cho Bác ra dự khoảng 15 phút để gặp đồng bào. Bác ra ngồi trên sân khấu trước, sẽ quấn khăn che cổ…rồi hãy tiến hành khai mạc. Bác sẽ cố nói cho được bình thường mấy câu với đồng bào. Nhưng đồng chí Thủ tướng báo cáo là đã làm mít tinh từ đêm trước rồi, vì Bác đang mệt. Bác lặng im vẻ không vui, phải chăng Bc1 hiểu, vậy là sẽ không còn có dịp nào để tiếp xúc với nhân dân nữa[27].
Vào 9 giờ ngày 2 – 9 – 1969, Bác bị một cơn đau tim nặng. Theo dõi trên máy điện tim thì đến 9 giờ 15 tim Bác ngừng đập hẳn. Các bác sĩ thay nhau dùng sức ấn lên ngực Bác, mong sao tim Người đập trở lại. Cho đến 9 giờ 47 phút, Thủ tướng Phạm Văn Đồng trào nước mắt: “Thôi các đồng chí ạ, Bác của chúng ta không qua khỏi nữa rồi”[28].
Nếu như ngày 2 – 9 – 1945, tại quảng trường Ba Đình, toàn dân lắng nghe Bác đọc những lời tuyên ngôn vang dậy núi sông thì ngày 9 – 9 – 1945, nơi đây trở thành nơi đồng bào đưa tiễn và thương khóc Bác. Trong lễ truy điệu Bác, đồng chí Lê Duẩn đã đọc điếu văn trong nghẹn ngào xúc động: “Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất này vô cùng lớn lao! Đau thương này thật là vô hạn…”.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bản Di chúc mà Người bắt đầu viết từ ngày 10 – 5 – 1965, khi còn rất minh mẫn. Vào dịp sinh nhật các năm 1966, 1967, 1968 và 1969, Người đều dành thời gian để xem lại, sửa chữa và bổ sung vào bản Di chúc. Trong Di chúc Người khẳng định “Cuộc khánh chiến của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắn chắn”.
Người căn dặn Đảng ta phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng “như giữ gìn con ngươi trong mắt mình”, phải chú trọng việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, phải có chính sách thật tốt để chăm lo đời sống nhân dân sau chiến tranh, phải góp phần vào việc khôi phục khối đoàn kết trong phong trào cộng sản quốc tế…Và Người nói lên điều mong muốn cuối cùng của mình là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Mặc dù trong Di chúc Bác dặn khi Người mất chớ cúng phiếu linh đình, tâm nguyện của Người là được hỏa táng nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn quyết định giữ gìn thi hài của Người lâu dài và xây dựng lăng cho Bác, với mong muốn khi nước nhà thống nhất, nhân dân cả nước có thể được thấy mặt Người. Lúc đầu, theo ý kiến của các chuyên gia Liên Xô – những người đã từng bảo vệ thi hài Lênin, nên đưa thi hài Bác sang Liên Xô để tiện giữ gìn vì lúc này đế quốc Mỹ đang tăng cường ném bom tàn phá miền Bắc và một phần do điều kiện nước ta khắc nghiệt. Nhưng nhân dân không nở để Bác đi, thế là phải đưa thi hài Bác lên bảo quản tại Đá Chông – K9 (Ba Vì), sau đổi thành K48. Trong đêm tối giá buốt giữa quảng trường Ba Đình khi cả thành phố Hà Nội đang chìm trong giấc ngủ thì đoàn xe chở Bác lên an toàn khu bắt đầu lên đường. Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tiễn Bác ra đi trong nước mắt. Nhưng vì đế quốc Mỹ lại tiến hành ném bom lên vòng Tây Bắc nên từ khi đó cho đến lúc lăng được xây xong, Bác phải đi lên an toàn khu rồi lại quay về Hà Nội tổng cộng hết 6 lần.
Ngày 2 – 9 – 1973, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức khởi công xây dựng. Công việc xây lăng do Bộ Kiến trúc và Bộ Quốc phòng được phân công phụ trách với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Nhà nước, nhân dân cả nước đồng tâm góp sức vào công việc xây lăng với mong muốn sớm ngày được đón Bác. Cát được lấy từ suối Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình do người dân tộc Mường đem về. Đá cuội được chuyển từ các con suối vùng Sơn Dương, Chiêm Hoá, Ngũi Thỡa, Tuyên Quang... Đá chọn xây lăng từ khắp các nơi: đá Nhồi ở Thanh Hoá, đá Hoa (chùa Thầy), đá đỏ núi Non Nước... Nhân dân dọc dãy Trường Sơn cũng gửi ra 16 loại gỗ quí. Các loài cây từ khắp các miền được mang về đây như: cây chũ nõu ở Đền Hùng, hoa ban ở Điện Biên-Lai Châu, tre từ Cao Bằng... Thanh thiếu niên cũng tổ chức buổi tham gia lao động trong việc mài đá, nhổ cỏ, trồng cây. Hệ thống điện phục vụ chiếu sáng, thiết kế xây lăng và bảo quản thi hài Hồ Chí Minh do các chuyên gia Liên Xô đảm nhiệm.
Sau gần 2 năm tiến hành xây dựng, ngày 18 – 7 – 1975, Hà Nội đón Bác vào lăng. Ngày 29 – 8 – 1975, lễ khánh thành Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình được Đảng và Nhà nước ta tổ chức thật trọng thể. Lăng có chiều dài 320 m, rộng 100 m, và 240 ô cỏ xanh tươi suốt bốn mùa. Là nơi trang nghiêm của Hà Nội, lăng được bảo vệ cẩn mật. Trong lăng là thi hài Bác được đặt trong hòm kính được ghép bằng đá đen huyền lấp lánh. Qua lớp kính trong suốt, Hồ Chí Minh nằm trong bộ quần áo ka ki bạc màu, dưới chân có đặt một đôi dép cao su.
Tuy Bác đã đi xa, nhưng trái tim Người vẫn luôn sống mãi với thủ đô Hà Nội, với toàn thể dân tộc Việt Nam.
          Trong không khí nhân dân cả nước đang cùng nhân dân Hà Nội phấn khởi chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XII, Bác nằm trong lăng như mặt trời chói rọi, soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam đi đến đoạn đường thành công phía trước.
          Sau khi tham quan khu di tích Phủ Chủ tịch, chúng tôi còn đến thăm một số di tích khác ở Hà Nội như Văn miếu Quốc Tử Giám, Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam…Tối đó, chúng tôi tổ chức một buổi tiệc chia tay vì những ngày sau, trên đường trở về Nam, các thành thành viên trong lớp lần lượt dừng chân ở quê mình khi xe đi qua để trở về nhà ăn tết cùng gia đình.
          Sáng hôm sau, xe chúng tôi khởi hành sớm đi ngược về nam. Hai ngày sau chúng tôi về tới Thành phố Hồ Chí Minh. Dọc đường hầu hết các bạn đã dừng chân vì tới quê mình, riêng tôi và một số bạn vì nhà ở miền Tây cho nên “đi tới nơi, về tới chốn”. Khoảng 7 giờ 30 phút tối ngày 29 – 1 – 2016, xe tới Làng Đại học quốc gia, mọi người chia tay nhau và cuộc hành trình kết thúc.



LỜI KẾT

         
          Kết thúc chuyến đi, tôi sưu tập cho mình được một album ảnh, một số quyển sách và những điều tai nghe mắt thấy. Từ chuyển đi này tôi có thể biết và giải thích được nhiều điều mà trước đây hầu như tôi không thể hiểu được. Điều đó khiến tôi càng tự hào hơn khi mình là sinh viên chuyển ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh, được học tập và nghiên cứu sâu về cuộc đời của Bác.
          Cả cuộc đời của Bác Hồ là những chuyến đi không mệt mỏi, Bác đi từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây chỉ với một ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Chúng tôi cũng có một cuộc hành trình như vậy, nhưng cuộc hành trình của chúng tôi làm sao so với Bác được về cả độ dài đường đi và cả mục tiêu chí hướng. Cái rét 2 độ C của núi rừng Đông Bắc làm sao lạnh bằng cái rét của đất trời khi Người đi cào tuyết ở châu Âu, cái nóng 37 độ C của đất Bình Thuận làm sao nóng bằng cái nóng của lửa than khi Người làm việc nơi hầm mỏ, chúng tôi đi thực tập ăn cơm món ăn lạ quê hương mà nhiều người còn nuốt không nỗi, trong khi giữa núi rừng Việt Bắc thì Người lại sẵn sàng với “cháo bẹ, rau măng”…Nghĩ lại mới thấy, để học theo gương của Bác Hồ thì học cả một đời cũng không hết được.
          Nếu như Nam Đàn – Nghệ An là nới Bác đã sinh ra và lớn lên thì Pác Bó – Cao Bằng được coi là quê hương thứ hai của Bác. Nếu như Huế là nơi khởi nguồn cho những ý tưởng cách mạng đầu tiên thì Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tạo đà cho những ý tưởng đó trở thành hiện thực. Nếu như Phan Thiết – Bình Thuận là điểm dừng chân đầu tiên khi Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước thì Hà Nội là điểm dừng chân sau cùng và là nơi Người an nghỉ đời đời. Người đi đến nơi đâu, đều để lại những dấu ấn khó phai trong lòng những người dân nơi đó. Khi Người trở thành Chủ tịch nước thì Người vẫn không hề xa lạ mà lại càng gần gũi hơn nữa với nhân dân. Những địa danh trên đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì tấm lòng của những người dân ở nơi đây đối với Người thật là kính yêu như một vị “cha già dân tộc”.
          “Cuộc hành trình kết thúc cho những bắt đầu” – một người bạn nói với tôi như vậy. Sau chuyến đi này, tôi càng hiểu rõ và yêu quý Bác nhiều hơn. Tự lòng tôi xin gửi lời tri ân đến các thầy cô trong bộ môn đã tạo điều kiện cho chúng tôi có được chuyến đi đầy ý nghĩa, và cũng xin hứa với bản thân là mình phải cố gắng nhiều hơn nữa, học tập và làm theo gương sáng của Người để góp phần xây dựng đất nước ngày mai tươi sáng hơn.
         
 [22] Hồ Phương (2015), Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Đài hoa vĩnh cửu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr 22.            
 [23] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 6-8.
[24]Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 534.
[27]Hồ Phương (2015), Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Đài hoa vĩnh cửu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 70-71.














TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. E. Cô-bê-lép (2005), Nguyễn Minh Châu, Mai Lý Quảng dịch, Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
2. Nguyễn Chí Huân, Nguyễn Bảo, Chu Văn Tắc, Doãn Đức Xuân, Bùi Đoàn Cầm (2007), Giữ yên giấc ngủ của Người, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
3. Mai Văn Bộ (2007), Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, TP. HCM.
4. Trần Thái Bình (2015), Hồ Chí Minh, sự hình thành một nhân cách lớn, Nxb Trẻ, TP. HCM.
5. Hà Minh Hồng (chủ biên) (2012), Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm (1911 – 2011), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM.
6. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2015), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh (2002), Hồ Chí Minh Tiểu Sử, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Trình Quang Phú (2007), Đường Bác Hồ đi cứu nước, Nxb Thanh niên, TP. HCM.
12. Hồ Phương (2015), Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Đài hoa vĩnh cửu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
13. Sơn Tùng (2005), Bác về, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.










[1] Lúc này đang là tháng 1 năm 2016 nhưng là tháng Chạp năm Ất Mùi.
[2] Hà Minh Hồng (chủ biên) (2012), Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm (1911 – 2011), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM, tr. 9.
[3] Hà Minh Hồng (chủ biên) (2012), Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm (1911 – 2011), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM, tr. 89.
[4] Sở dĩ gọi là Bến Nhà Rồng là bởi tại bến có ngôi nhà trên nóc có đôi rồng được gắn vào theo kiểu “Lưỡng long chầu nguyệt” . Có ý kiến cho rằng xuất phát từ tên của vua Gia Long, “Gia” nghĩa là Nhà, “Long” nghĩa là Rồng.
[5] Mai Văn Bộ (2007), Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, TP. HCM, tr. 42.
[6] Có tài liệu nói rằng, năm 1912 Nguyễn Tất Thành có trở lại Sài Gòn.
[7] Huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
[9] Công ty Liên Thành được thành lập ở Phan Thiết, là một tổ hợp gồm ba tổ chức: Liên Thành thương quán, Liên Thành thư xã và Dục Thanh học hiệu (trường Dục Thanh) – những cơ sở gắn liền với các vấn đề kinh tế - văn hóa xã hội – giáo dục để các sĩ phu  duy tân thực hiện chí hướng của mình. Tên Liên Thành ngụ ý bảo vệ truyền thống, có nghĩa là thành hoa sen.
[10] Hà Minh Hồng (chủ biên) (2012), Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm (1911 – 2011), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM, tr. 61 – 63.
[11] Trong ba mươi năm cuối đời mình, cụ Nguyễn Thông dựng bên bờ sông Mương Mán một nhà thờ, sau nhà thờ là nhà ở. Trên gác có phòng đọc sách, xung quanh tường vẽ là những cảnh cụ đã từng thưởng ngoạn, dọi là Ngọa du sào (cái tổ để nằm chơi), bên cạnh có ngôi nhà thảo bạt để cho khách nghỉ chân, bàn chuyện. Nơi đây từng là nơi lui tới của nhiều sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ.
[12] Sơn Tùng (2015), Búp Sen Xanh, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, tr. 245.
[13] Hà Minh Hồng (chủ biên) (2012), Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm (1911 – 2011), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM, tr. 66 – 67.
[14] Do cách phát âm của của người Nghệ An nên Nguyễn Sinh Cung đọc chạy ra là Nguyễn Sinh Côn.
[15] Sơn Tùng (2015), Búp Sen Xanh, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, tr. 111 – 112.
[17] Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh (2002), Hồ Chí Minh Tiểu Sử, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 13 – 14.
[18] Sơn Tùng (2005), Bác về, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr. 27 – 28.
[20] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 49.
[22] Hồ Phương (2015), Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Đài hoa vĩnh cửu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr 22.
[23] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 6-8.
[24]Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 534.
[27]Hồ Phương (2015), Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Đài hoa vĩnh cửu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 70-71.

Nhận xét